Chế độ
diệt chủng tay sai Việt Nam Cộng hòa được đế quốc Mỹ dựng lên ở miền Nam
sau năm 1954 để thay mặt Mỹ làm nhiệm vụ nô dịch và chia cắt lâu dài
dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, sau khi “đào tạo và nhồi sọ Ngô Đình
Diệm”, Mỹ ngay lập tức đưa Diệm về Sài Gòn, lập ngay lên chế độ độc tài
gia đình trị nhà họ Ngô. Chính chế độ độc tài, hà khắc này đã biến miền
Nam Việt Nam trở thành mảnh đất đau thương, thảm khốc, chết chóc, tiếng
oán thán ngất trời bởi đạo luật 10/59 do Diệm ban hành, một đạo luật cho
phép lính VNCH “lê máy chém” đi khắp miền Nam để giết hại đồng bào vô
tội với châm ngôn “thà giết nhầm con hơn bỏ sót”. Chế độ độc tài gia
đình trị Ngô Đình Diệm được dựng lên không thông qua tổng tuyển cử theo
thỏa thuận tại Geneva, ngay Diệm khi lên nắm quyền đã tuyên bố một cách
tráo trở rằng “sẽ không hề có tổng tuyển cử” mà Mỹ chỉ định Diệm sẽ làm
tổng thống của VNCH, thống trị miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào.
Từ những sự kiện lịch sử trên đã khẳng định rằng sự ra đời của chế độ
VNCH chỉ là trò hề chính trị của đế quốc Mỹ, không hề được sự đồng thuận
của nhân dân miền Nam, nên nó không có chính danh, không đại diện cho
quyền lợi của ai. Chính điều này đã khẳng định và phủ nhận luôn những
luận điệu tuyên truyền của lũ mọi rợ này khi cho rằng nhân dân miền Nam
rất yêu quý Chính phủ quốc gia, trong khi ngày bại trận, những kẻ lãnh
đạo cùng với quan thầy của ngụy quân, ngụy quyền đã bỏ chạy, cút khỏi
miền Nam, bỏ lại con dân miền Nam không hề thương tiếc, đồng thời với
tâm lý chiến của mình, chúng đã lôi kéo theo hàng triệu người dân vô tội
bỏ mạng tại biển Đông trong cuộc tháo chạy lịch sử cuối tháng 4 năm
1975.
Một tờ báo dưới thời VNCH (nguồn internet)
Dưới thời
Diệm, việc xuất bản báo chí ở miền Nam chỉ được ưu tiên giành cho những
tờ báo thân Mỹ – Ngụy, phục vụ cho mục đích tuyên truyền “tâm lý chiến”
còn tự do báo chí có thể khẳng định rằng không hề có. Diệm đã tước bỏ
tất cả mọi quyền hạn dù là nhỏ nhất của người dân miền Nam, bất cứ ai
cũng có thể bị bắt bớ, bỏ tù, giết hại nếu bị lính của Diệm nghi ngờ
rằng đó là cộng sản, đang che dấu cộng sản hoặc có liên quan đến cộng
sản. Việc đi lại, học tập, viết lách là điều vô cùng xa xỉ đối với nhân
dân miền Nam, một nhà báo dưới thời Diệm đã từng mô tả “Ngành
báo chí của chúng tôi luôn luôn bị áp bức, khủng bố. Hàng
ngày, phải chịu trăm điều tủi nhục, bắt buộc phải viết những
hàng chữ ngược lại với lòng mình, để hoan hô những cái điêu
ngoa, giả dối, tàn ác, bất nhân của gia đình họ Ngô” [1] trừ con của quan lại quý tộc Mỹ và bè lũ quan chức VNCH. Sau này để xóa bỏ sự hà khắc của tự do báo chí dưới thời Ngô Đình Diệm, ngày 30/12/1969 Nguyễn Văn Thiệu đã thông qua Luật báo chí của VNCH tại Sài Gòn
gồm 8 chương và 69 điều. Tuy nhiên trên thực tế, việc tự do báo chí
dưới thời của Thiệu cũng chẳng khá khẩm hơn thời của Diệm bao nhiêu, bởi
mặc dù Luật này tuyên bố rằng “tự do báo chí là quyền tự do căn bản
trong chính thế VNCH” tuy nhiên, trên thực tế những điều luật này có
những quy định vô cùng hà khắc về thủ tục hành chính cũng như giới hạn
ký quỹ. Sau đó chính quyền VNCH đã bổ sung Luật này bằng Sắc luật 007/72,
một đạo luật khắt khe hơn nhiều nhằm hạn chế các quyền tự do báo chí ở
miền Nam Việt Nam. Tại sắc Luật này quy định số tiền các báo phải ký quỹ
rất lớn làm nhiều báo không có tiền ký đành đóng cửa. Chính điều này
làm cho các nhà báo tổ chức các cuộc biểu tình phản đối sự hà khắc của
chế độ báo chí VNCH, các nhà báo gọi tự do báo chí ở VNCH là “ký giả ăn mày”
tức những người không có tiền, muốn hoạt động nghề báo nhưng do chế độ
hà khắc nên chẳng khác gì những kẻ “ăn mày”. Ngày 4.8.1972, chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu ra sắc luật 007, buộc mỗi tờ nhật báo phải ký quỹ tại
Tổng nha ngân khố 20 triệu đồng (bằng 500 lượng vàng). Ngày 3.9.1972,
Trần Tấn Quốc người sáng lập chủ bút báo ĐUỐC NHÀ NAM ra số báo cuối
cùng, trên số báo này, ông nói lời tạm biệt với bạn đọc, tuyên bố tự ý
đình bản và công kích gay gắt sắc luật 007. Đầu năm 1973, ông trở lại
cộng tác với tờ Điện Tín. Sự có mặt của Trần Tấn Quốc đã làm cho tờ Điện
Tín tăng số phát hành đến không ngờ. Ngày 10.10.1974, người ta thấy
Trần Tấn Quốc đi đầu trong đoàn “Ký giả ăn mày”, một sự kiện đi vào lịch
sử báo chí Việt Nam và làm chấn động dư luận quốc tế.
Chủ bút Đuốc Nhà Nam – Trần Tấn Quốc
Đạo luật này
cũng có những quy định hà khắc như tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai
do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng thì sẽ bị đóng
cửa vĩnh viễn. Trước khi có luật này, một tờ báo bình thường, mỗi tuần
ít nhất cũng bị tịch thu một, hai lần; từ vụ xử đầu tiên theo sắc luật
007/72 (tờ báo đã bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt trận Biệt khu Thủ đô
đầu tiên là Điện Tín ngày 18-8-1972) cho đến hết năm 1973 có tất cả 228
vụ tịch thu và truy tố báo chí. Trước đó khi chưa có sắc luật 007/72,
từ tháng 12/1969 đến tháng 8/1972 có đến 5.000 vụ “vi phạm luật báo chí”
cũ (luật 019/69) từ những minh chứng trên đã cho thấy chẳng hề có
chuyện tự do báo chí dưới thời VNCH như những thông tin bịa đặt, xuyên
tạc của một số kẻ bồi bút đang lợi dụng internet để tuyên truyền những
luận điệu bất lợi cho Việt Nam.
Còn những tờ
báo chính thống của VNCH chủ yếu đăng truyện dâm ô, nhục dục nhằm lôi
kéo thị hiếu rẻ tiền của người đọc. Trong số những truyện feuilleton gợi
tình trên báo chí VNCH thời ấy nổi lên tên tuổi của một số nhà văn, nhà
báo sắc dục như Minh Đức Hoài Trinh, Lệ Hằng, Lê Xuyên, Trần Đức Lai…
Trong đó truyện “Cậu Chó” của Trần Đức Lai là “rừng rực”, dữ dội hơn cả.
Những câu chuyện trên cực kỳ dâm ô, đầy tính chất hoang đường. Nhưng
dưới thời VNCH lại trở thành món điểm tâm lớn cho một chế độ thối nát và
những tên tay sai bẩn thỉu.
Nguồn: [1]. Tạp chí Bách khoa (Sài Gòn), số 165, ngày 15/11/1963, tr. 93 – 94Trần Ái Quốc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét