Con người ta khi về già thì
tính nết thường có xu hướng trẻ con hóa. Cũng như phụ nữ trước thời kỳ mãn kinh
sẽ "hồi xuân", người về già thường "hồi nhi". Trong ngôn ngữ
mạng xã hội, từ "trẻ trâu" dùng để chỉ những người trẻ thiếu kiến thức
- hiểu biết nhưng thừa sự hung hăng, thì cũng có "già trâu" để chỉ
thành phần tương tự nhưng trái ngược về tuổi đời. Nói vậy để biết rằng đây đơn
thuần là một vấn đề sinh lý bình thường. Tuy nhiên, "hồi nhi" đến mức
chẳng còn phân biệt được đúng sai, phải trái thì thật là đáng trách, nhất là đối
với những người có chút địa vị trong xã hội.
Trước đây, cái tên thiếu tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh thường được ký dưới các bài viết, kiến nghị mang tính xuyên tạc
đăng trên các trang web của giới lưu manh chính trị đội lốt "dân chủ".
Nhưng gần đây, ông thiếu tướng này đã phải nhường chỗ cho một ông thiếu tướng
khác trẻ hơn, nổi tiếng hơn và thậm chí là một anh hùng LLVT QĐNDVN: Lê Mã
Lương. Không như ông thiếu tướng "gần đất xa trời" Nguyễn Trọng Vĩnh
chỉ xuất hiện trong các bài viết đăng trên các trang weblog "cha vơ chú
váo", ông Lương thì chễm chệ trên mặt các trang báo mạng với các bài phát
biểu văng mạng và có sức tàn phá sự thật lịch sử cũng như lòng tin ghê gớm.
Không như ông Vĩnh đã ở vào cái tuổi "đái ướt mũi giày", nói trước
quên sau, dễ bị lũ hậu bối lưu manh lừa bịp, ông Lương vẫn còn trong giai đoạn
tráng kiện, hăng hái của thời kỳ mới hưu. Chính bởi vậy, vô hình chung, ông
Lương trở thành một "ngôi sao mới nổi" của đám lưu manh chính trị. Và
có ai ngờ, chính ông, dường như đã ngả vào vòng tay của chúng, theo những hình ảnh
mới đây được chúng công bố trên mạng.
Thiếu
tướng Lê Mã Lương với đám "dân oan chuyên nghiệp" tai tiếng ở Hà
Thành
Có thể nói, tên tuổi của vị
cựu giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam "nổi" trở lại nhờ một
đoạn video về phát biểu của ông trong buổi tọa đàm "Minh Triết Biển
Đông" nào đó, giữa thời điểm sôi sục phong trào phản đối Trung Quốc đưa
giàn khoan HD-981 vào Hoàng Sa. Việc đưa ra ý kiến của mình về những vấn đề
quan trọng như vậy là điều đáng hoan nghênh đối với những người có kinh nghiệm
chiến đấu, có kiến thức lịch sử lại từng giữ vị trí lãnh đạo một cơ quan quân đội,
bởi nó sẽ góp phần định hướng thông tin đúng đắn cho người dân. Tuy nhiên, đáng
buồn là ông Lương, thay vì vận dụng hiểu biết thực sự của mình thì lại
"chơi nổi" bằng cách đưa ra một thông tin "nghe hơi nồi
chõ", chẳng những không cổ vũ được tinh thần quân dân trong thời điểm khó
khăn ấy mà thậm chí lại làm phản tác dụng, nếu không muốn nói là "đâm sau
lưng đồng đội".
Trong đoạn nói chuyện ấy, tướng
Lê Mã Lương bịa ra một chiến sĩ là Nguyễn Văn Luyện, bị lính Trung Quốc đâm nhiều
nhát, nhưng đáng kể nhất là ông nói, đã có nhân vật cao cấp lệnh cho lính ta ở
Trường Sa không được nổ súng vào lính Trung Quốc. Mặc dù đã có nhiều người
trong cuộc như cựu binh Lê Hữu Thảo hoặc những người thông hiểu lịch sử truyền
thống Hải quân nhân dân Việt Nam như nhà báo Thiềm Thừ, ngay sau đó, đã lên tiếng
phản bác lại luận điệu của ông Lương nhưng khổ nỗi, ở đời, "tiếng lành đồn
gần, tiếng dữ đồn xa" nên những lời phát biểu vô trách nhiệm của ông tướng
họ Lê cho đến bây giờ, và có lẽ còn rất lâu sau nữa, vẫn là "viên đạn súng
lục bắn vào quá khứ", và đáng trách hơn, vào chính những đồng đội của ông,
đồng thời là cơ sở, là sự tiếp tay vô tình cho những kẻ chống phá sự bình yên của
đất nước mình.
Lời
nhắn của cựu binh Gạc Ma Lê Hữu Thảo trên Facebook.
Nhưng, mỉa mai thay, cũng
chính vì sự tai tiếng đó, báo giới (chủ yếu là báo mạng) lại nhớ đến ông và thường
tìm đến ông trong những vấn đề liên quan đến lịch sử quân đội và tình hình căng
thẳng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cũng phải thôi vì ông đường đường là cựu
giám đốc bảo tàng quân đội, một tiến sĩ sử học và cũng từng tham gia chống
Trung Quốc trong cuộc chiến biên giới 1979. Vậy mà, ngay cả khi đụng đến sở trường
của mình, ông lại đi hết từ sai lầm này sang sai lầm khác.
Về lịch sử quân đội, khi được
tờ VTC News hỏi về việc có hay không việc Liên Xô viện trợ hỏa tiễn Kachiusa
cho Việt Minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ thì ông Lương khẳng định rằng:
Sư đoàn công pháo 351 chính
là đơn vị sở hữu toàn bộ các loại pháo do Liên Xô qua Trung Quốc viện trợ cho
Việt Nam khi đó.
Đây là sư đoàn kết hợp giữa
công binh và pháo binh, sử dụng các loại pháo cao xạ phòng không 35mm và lựu
pháo mặt đất 105mm. Đặc biệt, trong sư đoàn 351 khi đó, có một tiểu đoàn tên lửa
Kachiusa do Liên Xô viện trợ.
Tiểu đoàn này bao gồm 6 khẩu
Kachiusa, mỗi khẩu có 6 nòng có khả năng nhả đạn liên tiếp. Như vậy, sư đoàn
công pháo 351 khi đó sở hữu 36 nòng tên lửa Kachiusa của Liên Xô.
Tuy nhiên, tiểu đoàn
Kachiusa này chưa từng có cơ hội thể hiện trong chiến dịch Điện Biên Phủ dù đã
triển khai trận địa, vì cục diện thay đổi và quân đội Việt Nam chỉ cần sử dụng
cao xạ 37mm và lựu pháo 105mm là đủ.
....
Như đã nói ở trên, các vũ
khí của Việt Nam khi đó được Liên Xô viện trợ nhưng nhận hàng trực tiếp từ
Trung Quốc để giảm thời gian vận chuyển, chứ không phải vũ khí đó là Trung Quốc
viện trợ cho Việt Nam.
Thực sự thì những dàn
"hỏa tiễn Kachiusa" ấy chính là những khẩu pháo phản lực 6 nòng Type
506 (ta gọi là H6) do Trung Quốc chế tạo và viện trợ cho ta. Ngoài ra, lượng lựu
pháo 105mm chủ lực của ta trong chiến dịch ĐBP phần lớn là do Trung Quốc viện
trợ (chiến lợi phẩm trong cuộc chiến với Tưởng Giới Thạch), phần còn lại là thu
được trong các trận đánh với quân Pháp trước đó. Trong cuốn sách "Điện
Biên Phủ Điểm Hẹn Lịch Sử" của đại tướng Võ Nguyên Giáp có đề cập đến các
loại pháo này như sau:
Trung đoàn lựu pháo 105
ly đầu tiên của ta, gồm 24 khẩu pháo Mỹ với 3.600 viên đạn, đã có
mặt ở Bắc Mục, Tuyên Quang, sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu Đây là
hỏa lực mạnh nhất của quân đội ta lúc này. Trung đoàn lựu pháo nằm
trong đội hình của đại đoàn công pháo 351. Riêng trung đoàn pháo cao
xạ 37 ly, do Liên Xô trang bị, mới thành lập từ tháng 9 năm 1953, chỉ
có thể có mặt vào cuối năm."
Lực lượng ta có 9 trung
đoàn bộ binh, gồm 27 tiểu đoàn, 1 trung đoàn sơn pháo 75 ly (24 khẩu),
2 tiểu đoàn lựu pháo 105 ly (24 khẩu), 4 đại đội súng cối 120 ly (16
khẩu), 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 ly (24 khẩu), và 2 tiểu đoàn công
binh. So sánh lực lượng bộ binh, ta hơn địch về số tiểu đoàn (27/12),
nhưng quân số mỗi tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 quân số tiểu đoàn
địch, và trang bị yếu hơn nhiều. Về lực lượng pháo yểm hộ trực
tiếp cho bộ binh, ta hơn địch về số lượng (64/48 khẩu), nhưng lực
lượng đạn pháo dự trữ của ta rất hạn chế. Ta hoàn toàn không có xe
tăng, và chỉ có 1 trung đoàn cao xạ 37 ly để đối phó với toàn bộ
không quân địch.
Đợt học tập chính trị
đã mang lại cho mọi người niềm tin vững chắc ở thắng lợi. Chưa lúc
nào kho của mặt trận đầy đủ, sung túc thóc gạo bằng thời kỳ này.
Vào cuối tháng Tư, hậu cần đã có dự trữ cho tháng Năm. Về đạn cho
lựu pháo, ngoài 5.000 viên lấy được của địch, hơn 400 viên đạn chiến
lợi phẩm thu được ở Trung Lào đã được ngành hậu cần chuyển rạ tới
nơi. Bạn cũng chuyển cho ta hai dàn hỏa tiễn sáu nòng. Vì số lượng
đạn không có nhiều, nên đây sẽ là một bất ngờ dành cho quân địch vào
những ngày tiến cóng cuối cùng. Sau đợt 2 chiến dịch, chỉ trong mười
ngày ta đã xây dựng xong một tiểu đoàn ĐKZ 75 và một tiểu đoàn H6
(hỏa tiễn) do trung đoàn 676 phụ trách, kịp thời bổ sung cho mặt
trận.
Lần này có thêm sự phối
hợp của 12 dàn hỏa tiễn sáu nòng. Mặc dù độ tản xạ còn cao, những
đuôi lửa, tiếng rít và tiếng nổ dữ dội của loại vũ khí mớ này đã
làm cho quân đồn trú sơng trong những công sự đắp đất đã bị. mưa làm
suy yếu, hoảng sợ.
Với một người bình thường
thì những nhầm lẫn kiểu này không có gì khó hiểu, nhưng với một cựu giám đốc bảo
tàng quân đội, lại là tiến sĩ chuyên ngành sử học (ông học khoa Sử, ĐH Tổng hợp
Hà Nội), lên mặt báo để trả lời về một vấn đề đang được tranh luận nghiêm túc
thì không khỏi khiến cho người ta cảm thấy hụt hẫng và làm sứt mẻ niềm tin vào
những người có trách nhiệm truyền lửa thiêng lịch sử lại cho các thế hệ sau.
Mới đây nhất, tướng Lương
phát biểu trên tờ báo mạng GDVN rằng "Máy bay Trung Quốc đã uy hiếp an
ninh lãnh thổ Việt Nam" sau sự kiện máy bay dân dụng Trung Quốc thực hiện
các chuyến bay ra đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Và ông đề xuất: “Trong
trường hợp này chúng ta hoàn toàn có thể chủ động đối phó, đảm bảo an ninh
không phận. Nhưng tại sao Trung Quốc vi phạm như vậy, chúng ta không cảnh báo kịp
thời tại thời điểm xảy ra, để đưa ra biện pháp ngăn chặn? Vấn đề là chúng ta
chưa đủ quyết liệt...
... “Đối với nước ngoài, nếu
rơi vào trường hợp này, họ sẽ đưa ra những cảnh báo ở các mức độ khác nhau.
Có trường hợp nghiêm trọng
có thể sử dụng máy bay áp sát và các phương tiện, khí tài hỗ trợ, khống chế các
hành động vi phạm nói trên”.
Thực sự thì tôi không rõ khi
ông còn tại ngũ, chức vụ chỉ huy chiến đấu cao nhất của ông là gì (cấp bậc thiếu
tướng của ông được thăng khi ông làm giám đốc bảo tàng quân đội) nhưng những
phát biểu như vậy rõ ràng không phải là của một người cầm quân ở vị trí đòi hỏi
tầm nhìn chiến lược và trình độ chính trị cao.
Thứ nhất, có vẻ như ông
Lương đã không phân biệt được (hoặc không tìm hiểu kỹ tình hình trước khi phát
biểu) về vùng thông báo hướng dẫn bay (FIR) và không phận.
Vùng thông báo bay Hồ Chí
Minh (vòng xanh)
Vùng thông tin bay, viết tắt
là FIR (Flight Information Region), là vùng không gian khí quyển có kích thước
được xác định cụ thể. Máy bay qua vùng này phải cung cấp những thông tin cần
thiết cho việc điều hành chuyến bay an toàn và hiệu quả, báo động cho các cơ
quan có trách nhiệm khi một máy bay cần cứu trợ hay bị tai nạn để tìm kiếm cứu
nạn. Sự phân chia trách nhiệm giữa các đơn vị FIR là do thỏa thuận của các nước
liên hệ và phải thông qua Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO). FIR mang
tên vùng chứ không mang tên quốc gia nên không mang ý nghĩa về chủ quyền quốc
gia. FIR Hồ Chí Minh gồm cả vùng hải phận quốc tế cũng như cả một phần vùng trời
Lào và một phần vùng trời Campuchia. FIR Hong Kong và FIR Hồ Chí Minh chia nhau
trách nhiệm không gian khí quyển trên một phần của Biển Đông. FIR Bangkok chịu trách
nhiệm vùng trời Campuchia và vùng trời trên biển phía Nam Việt Nam.
Không phận là bầu trời do một
quốc gia kiểm soát bao phủ lãnh thổ và lãnh hải của quốc gia đó. Chiếu theo luật
quốc tế thì không phận chủ quyền ăn khớp với lãnh thổ, lãnh hải và nội hải của
một quốc gia, tức không gian trên đất và 12 hải lý dọc bờ biến. Không phận nằm
ngoài vùng lãnh hải và lãnh thổ được coi là không phận quốc tế, tương đương với
hải phận quốc tế.
Như vậy, việc những máy bay
dân dụng của Trung Quốc bay trong không phận quốc tế khó có thể nói là "đe
dọa trực tiếp tới an ninh vùng biển, vùng trời, chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam". Và điều họ vi phạm ở đây là lờ đi vai trò kiểm soát không lưu của
FIR Hồ Chí Minh trong khu vực này. Do đó, phía FIR HCM đã thông báo đến ICAO,
cơ quan quốc tế phụ trách việc này, là cách xử lý hoàn toàn xác đáng. Ông Lương
đòi “sử dụng máy bay áp sát và các phương tiện, khí tài hỗ trợ, khống chế các
hành động vi phạm nói trên” ở không phận quốc tế, có phải là làm trò cười cho
thiên hạ không?
Cần nói thêm, việc bộ ngoại
giao trao công hàm đến Đại sứ quán Trung Quốc là để phản đối việc nước này điều
máy bay phi pháp ra đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, chứ
không phải là vì máy bay của Trung Quốc vi phạm quy định của ICAO do không
thông báo cho FIR HCM khi bay vào khu vực này. Đây là một động thái riêng biệt,
nằm trong chiến lược xử lý mối quan hệ tranh chấp trên biển Đông thời gian vừa
qua của nhà nước ta.
Theo những người bạn
"dân oan" mới của tướng Lương thì những phát biểu của ông ấy còn
"hung hăng" hơn trên mặt báo nhiều!
Thứ hai, là một người kinh
qua chiến tranh, hơn ai hết ông Lương phải hiểu được giá trị của hòa bình. Chiến
tranh là một hành động cực chẳng đã, là điều cần phải hết sức tránh, nhất là đối
với một dân tộc yêu hòa bình và quá nhiều khổ đau vì chiến tranh như nước ta. Lịch
sử nước ta không hề thiếu những bài học cho thế hệ sau trong những tình hình
tương tự. Các vua nhà Trần đã năm lần bảy lượt nhún nhường tìm cách hòa hoãn
trước ý định xâm lăng của Nguyên Mông và chỉ buộc phải chiến đấu khi đội quân
xâm lược tràn qua biên giới. Sau CMT8, chính quyền cách mạng cũng vô cùng nỗ lực
trong việc tìm cách tránh khỏi chiến tranh với Pháp và Tưởng, đến mức mà có dư
luận lo lắng về việc cụ Hồ bắt tay với giặc Pháp. Giai đoạn 1954 - 1956, chúng
ta kiên trì thực hiện nghị định Geneve, cố gắng tránh tối đa mọi xung đột vũ
trang với chính quyền Ngô Đình Diệm ở phía Nam dù rằng bị ngụy quyền này đàn
áp, khủng bố đẫm máu. Chỉ đến khi các lãnh đạo Đảng CSVN xác định rằng không
còn hy vọng gì về việc thực hiện hiệp định Geneve thì cuộc đấu tranh vũ trang ở
miền Nam mới được tiến hành. Tiếp theo đó, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ thống nhất nước nhà vừa hoàn thành, từ năm 1975, nước ta lại bị quân Khmer đỏ
quấy nhiễu ở biên giới, tàn sát dân lành. Trước tình hình đó, chúng ta vẫn phải
tiếp tục nhẫn nhịn trong suốt 4 năm trời, trước khi vùng lên làm cuộc tổng công
kích đập tan chế độ quái thai này cũng như đẩy lùi 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình ở
biên giới phía Bắc. Ngay cả trong sự kiện ở quần đảo Trường Sa năm 1988, chúng
ta cũng có thể thấy sự nhẫn nhịn của lãnh đạo và chiến sỹ đã đem lại kết quả là
chúng ta đã chiếm giữ được 11 đảo chìm trong CQ88.
Ấy vậy mà tướng Lương, người
kinh qua các sự kiện oai hùng của nửa cuối thế kỷ 20 ấy, lại có những lời lẽ
kêu gọi đi ngược lại hoàn toàn với những bài học truyền thống và khát vọng hòa
bình của dân tộc. "Nhịn" không phải là "nhục" mà là để hạn
chế tối đa những gì tệ hại nhất cho dân tộc, cho đất nước. "Nhục" là
một khái niệm ấu trĩ để tự hạn chế khả năng của bản thân và có biên độ khác
nhau giới hạn bởi cái tâm và cái tầm của mỗi người. Cái "nhục" của
người kinh bang tế thế là không giúp cho quốc thái dân an,.. Cái "nhục"
vì sự gây hấn của kẻ khác là dành cho những kẻ võ biền hoặc trẻ trâu. Trong chiến
tranh, dù ai là người chiến thắng thì khổ đau vẫn là những người dân phải gánh
chịu. Trong thời đại này, một cuộc chiến tranh, nhất là với kẻ có tiềm lực kinh
tế, quân sự áp đảo, là con đường nhanh nhất để kéo nước ta tụt hậu lại thêm so
với thế giới và khu vực. Và cho đến giờ, lãnh đạo Đảng CSVN và nhà nước đã làm
rất tốt việc giữ cho "quốc thái dân an" dưới sự khiêu khích từ phía
Trung Quốc, sự "chọc ngoáy" từ các thế lực sen đầm quốc tế, trong bối
cảnh biến đổi phức tạp của thế giới. Nhưng đáng tiếc, một người như tướng Lương
lại không hiểu điều đó mà lại đưa ra những nhận định, ý kiến trái ngược.
***
Tướng Lương "thân mật"
với Trương Dũng, tên lưu manh chính trị có tiếng
ở Hà thành.
Anh hùng lực lượng vũ trang
Lê Mã Lương nổi tiếng với câu nói: "Chiến đấu là cao quý nhất, cuộc đời đẹp
nhất là trên trận tuyến đánh quân thù" thời kháng chiến chống Mỹ. Thời nay
hay bất kỳ thời nào thì chúng ta cũng đều phải "chiến đấu", có điều
là với những "kẻ thù" khác nhau. Do đó, trước khi "chiến đấu"
thì điều quan trọng nhất là chúng ta phải xác định được "quân thù" là
ai hay cái gì. "Quân thù" ngày nay không phải là một kẻ địch được xác
định rõ ràng như thời chàng trai trẻ Lê Mã Lương trở thành anh hùng mà ẩn hiện
tinh vi trong mớ quan hệ chằng chịt giữa bạn và thù, giữa hợp tác và cạnh
tranh, giữa "đồng chí" và "nghịch chí",.. Với những gì đang
thể hiện, nếu không kịp thời chấn chỉnh, rất có thể tướng Lương sẽ nhận định
sai giữa thù và bạn. Khi đó, không chừng có ngày ông lại phải hối hận vì
"cuộc đời tệ nhất là trên trận tuyến đánh ... quân mình".
0 nhận xét:
Đăng nhận xét