30/6/15

Con rối mới của Trung Quốc trong chiến lược diễn biến hòa bình ở Đông Nam Á!

Sự xuất hiện và bành trướng của Polpot tại Campuchia trước năm 1976 và thảm họa diệt chủng của 2 triệu người Capuchia đều có bàn tay can thiệp của Trung Quốc. Nói một cách trắng phớ rằng để Polpot hoạt động và liều mình tuyên chiến với Việt Nam cuối năm 1977, nếu không có Trung Quốc đứng đằng sau tài trợ thì còn lâu chúng mới dám đụng chạm đến một đất nước có 30 triệu quân cuối năm 1975 với đội quân được đánh giá là thiện chiến vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ.
Thảm họa diệt chủng khiến những người dân vô tội của Campuchia phải chịu cái chết thảm thương, khiến cho hàng nghìn quân giải phóng Việt Nam phải đổ máu, vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường Campuchia. Có những liệt sỹ Quân giải phóng Việt Nam đến tận ngày hôm nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt, vẫn nằm lại lạnh lẽo ở một nơi nào đó nơi xứ sở Campuchia xa xôi. Tình cảm của Việt Nam đối với Capuchia sâu nặng là thế, vĩ đại là thế, nhưng Campuchia bây giờ khác rồi, không còn là “anh em” như trước nữa, đã biến chất và ngày càng thân Trung Quốc, hay nói trắng ra là “trở thành con rối” trong chiến lược diễn biến hòa bình của Trung Quốc ở Đông Nam Á.
Campuchia không hề có biển và cũng không có yêu sách gì đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc và các nước Asean, thế nhưng nước này đang có những hành động, phát ngôn, tuyên bố gây phương hại đến lợi ích của các nước Asean trong đó có Việt Nam. Còn nhớ cách đây không lâu, với tư cách là chủ tịch luân phiên Asean, Capuchia đã phủ quyết không thông qua được tuyên bố về quy tắc ứng xử tại biển Đông. Một hành động được đánh giá là gây bất lợi cho các nước có chủ quyền liên quan đến biển Đông trước hành động bành trướng ngang ngược của Trung Quốc. Mới đây, một số quan chức nước này đã có những phát ngôn gây sốc, thể hiện quan điểm cực đoan trong giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông, bất chấp những hành động mới nhất của Trung Quốc đang gây phương hại đến an ninh hàng hải quốc tế, và chủ quyền các quốc gia có liên quan đến biển Đông trong đó có Việt Nam.
Theo Tân Hoa Xã, vào ngày 7/5 Quốc vụ khanh Campuchia Soeung Rathchavy tuyên bố: “Chúng tôi không hỗ trợ bất kỳ nỗ lực nào của một số nước thành viên ASEAN sử dụng diễn đàn khu vực để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ, vì ASEAN không phải một cơ quan pháp luật hay tư pháp”. Đồng thời bà ta tiếp lời “ Quan điểm của Campuchia về Biển Đông vẫn nhất quán: Các yêu sách lãnh thổ phải được giải quyết bởi đàm phán song phương hoặc tất cả các bên tranh chấp”.
soeung_rathchavy                                                                               
          Soeung Rathchavy
Những phát ngôn này rõ ràng muốn gây bất lợi cho việc quốc tế hóa vấn đề biển Đông. Đồng thời cổ vũ cho hành vi của nước lớn Trung Quốc khi áp đặt những cuộc đàm phán song phương mà ai cũng biết trước rằng chẳng đạt được kết quả gì cho các bên tham gia, Trung Quốc vẫn tiếp tục bành trướng, bất chấp pháp luật quốc tế và những nỗ lực của Asean. Đồng thời xổ toẹt luôn vai trò của Asean, biến Asean trở thành con bù nhìn, bất lực trước hành động bá quyền của Trung Quốc.
Trước đó vào ngày 25/3 Hun Sen đã khẳng định rõ quan điểm ủng hộ Trung Quốc khi cho rằng “Cuối cùng đó không phải là vấn đề đối với toàn bộ ASEAN. Nó là vấn đề song phương giữa các nước liên quan mà họ cần phải nói chuyện với nhau” và tranh chấp Biển Đông “cần được giải quyết bởi các bên bị ảnh hưởng trực tiếp”.
Hun Sen – Thủ tướng Campuchia (nguồn internet)
Những phát ngôn này của ông Hun Sen chính là chìa khóa để cho Soeung Rathchavy lên diễn đàn chém gió trước đại diện của 28 nước khi thông báo về kết quả của Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 26 của Asean. Những phát ngôn và những hành động trên mặc dù sau đó đã được chính Hun Sen tuyên bố chữa thẹn. Tuy nhiên, bất cứ ai cũng đã nhìn rõ sự thay đổi của Campuchia đến mức chóng mặt. CPC không còn như xưa nữa.

Đến diễn biến mới nhất những kẻ cực đoan ở CPC

Vào hôm 28/6 khoảng 250 người Campuchia có sự chỉ đảo của một số phần tử quá khích đến từ CNRP đã tiến sâu vào khu vực cột mốc 203 tại Long An thuộc lãnh thổ Việt Nam. Đây là cuộc xâm phạm lãnh thổ có quy mô lớn, được tổ chức bài bản với sự tham gia của những đối tượng chính trị cực đoan thuộc băng đảng của Sam Rainsy trước đây sau hơn 30 năm kể từ ngày Polpot xua quân xâm lược biên giới Việt Nam vào cuối năm 1977. Sam Rainsy đã không ngần ngại bộc lộ tư tưởng thân Trung Cộng và chống đối Việt Nam. Do đó hành động kích động lần này của những kẻ đối lập trong CNRP mặc dù hậu quả chưa lớn nhưng đã thể hiện tư tưởng dân tộc cực đoan, hẹp hòi và xổ toẹt những thành quả cách mạng giữa hai nước. Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Hải Bình – phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố “Chúng tôi yêu cầu các cơ quan chức năng của Campuchia có biện pháp xử lý thỏa đáng vụ việc, không để những hành động tương tự tái diễn, bảo đảm cho công tác phân giới cắm mốc được tiến hành thuận lợi vì lợi ích chung của nhân dân hai nước”. Những hành động này đã một mặt khẳng định rằng, việc tổ chức thể chế chính trị theo kiểu đa nguyên, đa đảng sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực cho sự phát triển đất nước. Đồng thời cũng là lời cảnh báo đối với Việt Nam nếu trong cuộc tổng tuyển cử tới CNRP lên nắm quyền, lật đổ Hun Sen thì Việt Nam sẽ trở thành cái gai trong mắt những kẻ cực đoan ở Campuchia.
Những hành động và phát ngôn trên đã gây tổn hại nghiêm trọng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Campuchia, cho thấy rõ sự thay đổi trong chiến lược ngoại giao của CPC. Rõ ràng những việc này đang gây bất lợi cho Việt Nam trong nỗ lực gìn giữ chủ quyền biển đảo và hòa bình trong khu vực.
Trần Ái Quốc

Diễn văn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Linh


TBT phat bieu 3
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Linh
Thưa các vị đại biểu,
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Trong không khí cả nước thi đua sôi nổi lập thành tích chào mừng kỷ niệm lần thứ 70 Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 và đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng, hôm nay, tại tỉnh Hưng Yên – quê hương của đồng chí Nguyễn Văn Linh, một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng, đang từng ngày đổi mới, chúng ta long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Linh – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm kỳ 1986 – 1991, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, một nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, người bạn tin cậy của bạn bè quốc tế.
Đây là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại thân thế, sự nghiệp, công lao và cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Linh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc; rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 01/7/1915, tại xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn (nay là huyện Yên Mỹ), tỉnh Hưng Yên. Xuất thân trong một gia đình yêu nước, Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động trong phong trào học sinh từ năm 14 tuổi. Với nhiệt tình của tuổi trẻ, được tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dẫn đường, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã không sợ hy sinh, gian khổ, tích cực, hăng hái hoạt động cách mạng trong học sinh, công nhân. Năm 1930, Đồng chí bị địch bắt lần đầu. Mặc dù chưa đến tuổi thành niên, Đồng chí vẫn bị chính quyền thực dân đưa ra xét xử, kết án tù chung thân, đày đi Côn Đảo. Năm 1936, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền, cùng với nhiều chiến sĩ cách mạng khác, Đồng chí được trả tự do, tiếp tục hoạt động, tham gia khôi phục phong trào cách mạng, lập lại Thành ủy Hải Phòng và được bầu làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Đầu năm 1939, Trung ương điều động Đồng chí vào tham gia Thành ủy Sài Gòn. Cuối năm 1941, Đồng chí được Trung ương cử ra Trung Kỳ chắp nối lại phong trào cách mạng, chuẩn bị lập lại xứ ủy mới. Tại đây, Đồng chí lại bị địch bắt và đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, được Đảng và Nhà nước đón từ Côn Đảo trở về, Đồng chí tiếp tục tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ và gắn bó với đồng bào Nam Bộ trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ cho đến thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân năm 1975. Trong thời gian này, Đồng chí đã được Đảng phân công giữ nhiều trọng trách, như: Bí thư Thành ủy, Đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn, quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Bí thư Khu ủy, Thành ủy Sài Gòn – Gia Định, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, Bí thư và Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IV, Ủy viên Bộ Chính trị khóa VI, Trưởng Ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng Ban Dân vận – Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), Đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng, Đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh thật phong phú và oanh liệt. Gần 70 năm hoạt động ở nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trải rộng trên cả ba miền đất nước và được Đảng tin cậy giao phó nhiều trọng trách, dù ở đâu, làm công việc gì, ở cương vị nào, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng luôn hết lòng vì Đảng, vì dân, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ và đã có những đóng góp to lớn cho Đảng, cho cách mạng. Nổi bật là:
1- Đồng chí đã trực tiếp cùng đồng bào miền Nam đi suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Nguyễn Văn Linh hoạt động ở Nam Bộ và dành hơn một nửa cuộc đời hoạt động cách mạng của mình gắn bó máu thịt với miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất phong trào cách mạng ở Sài Gòn – Chợ Lớn, Đồng chí đã chỉ đạo, tổ chức xây dựng, phát triển các cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng, các đoàn thể cứu quốc, mở rộng mặt trận, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, chiến tranh du kích, chống địch càn quét, củng cố căn cứ địa cách mạng… tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.
Trong những năm 1957 – 1959, cách mạng miền Nam đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo. Với Luật 10/59, đế quốc Mỹ và tay sai đã thi hành chính sách đàn áp tàn bạo, các lực lượng cách mạng ở miền Nam bị tổn thất nặng nề. Vào thời điểm gay go, ác liệt này, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với trách nhiệm là Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chủ trì và cùng các đồng chí khác lãnh đạo phong trào cách mạng miền Nam để lại những dấu ấn lịch sử. Cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng khởi”, Đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo thực hiện chủ trương của Đảng thành lập Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Nam. Đây là những nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi.
Bám trụ ở miền Nam, đương đầu với các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, trên các cương vị của mình, Đồng chí đã cùng Đảng bộ miền Nam kiên cường, sát cánh cùng đồng bào, chiến sĩ, vừa chiến đấu, vừa kiên trì xây dựng lực lượng, phát triển phong trào cách mạng ở cả 3 vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn, đô thị bằng 3 mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận; thể hiện năng lực lãnh đạo và tài năng tổ chức chỉ đạo thực tiễn đúng đắn, sáng tạo, từng bước đưa đường lối và quyết tâm của Đảng về cách mạng miền Nam thành hiện thực. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thuộc về toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh.
2- Đồng chí đã cùng với Trung ương có những đóng góp to lớn và quan trọng trong công cuộc Đổi mới đất nước. Ngay từ khi làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã nắm bắt thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm của một số cơ sở có cách làm sáng tạo để đề xuất với Trung ương nhiều chủ trương mới trong phát triển sản xuất, kinh doanh. Đến khi giữ trọng trách là Tổng Bí thư đầu tiên của thời kỳ đổi mới, Đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, chủ động, khôn khéo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua những khó khăn, có lúc hiểm nghèo, tiến hành công cuộc đổi mới thu được những kết quả bước đầu rất quan trọng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Qua đó, đã tạo dựng được lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng ta vạch ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào năm 1991.
Nhớ về đồng chí Nguyễn Văn Linh, chúng ta nhớ về hình ảnh của một nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo; kiên định về lập trường, nguyên tắc, đồng thời luôn trăn trở tìm tòi, sáng tạo trước những diễn biến mới của thực tiễn. Đồng chí cho rằng, để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, Đảng phải nhìn thẳng vào sự thật, phải có tinh thần dũng cảm tự phê bình mạnh mẽ, nắm được các quy luật khách quan, áp dụng phù hợp với điều kiện của đất nước; phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm, chống cách suy nghĩ chủ quan, bảo thủ, giáo điều. Phải gắn lời nói với việc làm, có nhiệt tình cách mạng cao thống nhất với tri thức khoa học vững chắc, đi sâu đi sát thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm mục đích, biết giải quyết công việc trên cơ sở phát huy quyền làm chủ và tính chủ động của quần chúng nhân dân. Đảng phải đề ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong từng thời kỳ để định hướng cho xã hội tiến lên. Đồng thời phải làm tốt công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó; tập trung vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị tốt cho việc chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo. Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Đồng chí nhiều lần nhấn mạnh, phải nhìn thẳng vào sự thật để tìm lối thoát, tìm phương hướng tiến lên. Tranh luận và biết chờ đợi, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo, làm sự kiểm chứng, cuối cùng cái đúng được khẳng định, cái sai từng bước được sàng lọc. Đảng ta chủ trương tiến hành đổi mới toàn diện, nhưng đổi mới phải có nguyên tắc, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp; phát huy dân chủ, đồng thời giữ vững kỷ luật, kỷ cương; không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”; phải kiên quyết chống tệ tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đồng chí sớm nhìn thấy bệnh tham nhũng, lãng phí, quan liêu có thể trở thành nguy cơ đe doạ sự ổn định của xã hội, của chế độ. Bằng một loạt bài viết trong mục “Những việc cần làm ngay”, đăng trên báo Nhân Dân, ký tên N.V.L, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tạo ra một luồng sinh khí mới trong xã hội: Dân chủ, công khai, nói thẳng, nói thật, lời nói đi đôi với việc làm, đấu tranh chống tiêu cực, làm trong sạch bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước.
Đồng chí đã có những phân tích, lý giải rất sắc sảo trên một loạt vấn đề cơ bản như: “Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Trong quá trình đó, có những lúc Đảng ta phạm sai lầm và khuyết điểm lớn, nhưng Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân. Sự thừa nhận công khai khuyết điểm không làm Đảng ta yếu đi mà là dấu hiệu của một Đảng mạnh, có đầy đủ tính cách mạng và tiên phong biết tin ở mình và tin ở nhân dân”(1). Đồng chí nói: “Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng ta… Chẳng lẽ bao nhiêu thành quả cách mạng giành được bằng xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam lại đem trao vào tay những lực lượng đưa đất nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa, con đường chắc chắn không thể bảo đảm độc lập thật sự cho dân tộc, tự do hạnh phúc thật sự cho tuyệt đại đa số nhân dân”(2). Đồng chí khẳng định: “Kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo. Chúng ta phải đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội”(3). Về nguyên tắc tập trung dân chủ, Đồng chí chỉ rõ: “Đảng ta coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác”. Phải thực hiện đầy đủ dân chủ trong Đảng đồng thời phải bảo đảm kỷ luật, thống nhất trong Đảng. “Dân chủ không thể có được nếu thiếu tập trung, thiếu kỷ cương, kỷ luật, thiếu trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với pháp chế. Dân chủ thực sự một mặt đối lập với độc đoán, chuyên quyền; mặt khác đối lập với tự do, vô chính phủ. Cần phải cảnh giác với những thủ đoạn mị dân, lợi dụng ngọn cờ dân chủ để gây rối”(4); “Dân chủ phải đi đúng hướng, dân chủ tập trung chứ không phải dân chủ có nghĩa là ai muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói theo kiểu vô chính phủ. Dân chủ cực đoan, vô chính phủ là điều hết sức tai hại, làm cho xã hội không ổn định. Không ổn định về chính trị và xã hội thì không thể nào đổi mới được kinh tế”(5). Đồng chí kịch liệt phê phán quan điểm đòi “đa nguyên, đa đảng”. Đồng chí nói: “Trong điều kiện nước ta, không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động… hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không chấp nhận”(6).
Trong hoạt động đối ngoại, trên cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chủ trương và trực tiếp tham gia thực hiện bình thường hoá quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc, giải quyết vấn đề rút quân khỏi Cam-pu-chia, tạo dựng môi trường hòa bình hữu nghị và ổn định trong khu vực, tạo cơ sở để Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, nối lại quan hệ với các nước Tây Âu; tạo cơ sở thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, phá thế bị bao vây cấm vận, giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), Đồng chí đã thay mặt Đảng ta long trọng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
3- Đồng chí Nguyễn Văn Linh là một tấm gương mẫu mực về phẩm chất, đạo đức của người cộng sản. Từ buổi đầu tiên tham gia cách mạng cho đến khi vĩnh biệt chúng ta, Đồng chí đã giữ trọn danh hiệu cao quý của người đảng viên cộng sản, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đồng chí đã để lại cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta một tấm gương sáng về phẩm chất của người cộng sản Việt Nam “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, trung thực, khiêm tốn, giản dị. Trải qua hai lần bị giam cầm trong ngục tù đế quốc với thời gian 10 năm, dù bị kẻ thù tra tấn dã man, Đồng chí vẫn một mực kiên trung, giữ vững khí tiết của người cộng sản. Ba mươi năm ở trên tuyến đầu ác liệt của hai cuộc kháng chiến cứu nước, phụ trách một địa bàn trọng điểm là sào huyệt đầu não của kẻ thù; mưa bom, bão đạn, gian khổ, thiếu thốn, cũng không lay chuyển được ý chí và quyết tâm giành độc lập, thống nhất Tổ quốc của Đồng chí.
Trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Đồng chí đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong chỉ đạo chiến lược, Đồng chí rất nghiêm túc chấp hành những nguyên tắc của Đảng, đồng thời luôn nhạy bén, điều chỉnh trong chỉ đạo cụ thể để phù hợp với diễn biến tình hình thực tế. Một nét đặc sắc trong phong cách lãnh đạo của Đồng chí là bình tĩnh, dân chủ, sâu sát, quyết đoán, giải quyết công việc hợp lý, hợp tình, vừa có lý luận, vừa có thực tế và trên cơ sở tổng kết thực tiễn để không ngừng hoàn thiện chủ trương, đường lối đã vạch ra. Ý thức tổ chức kỷ luật cao, sẵn sàng chấp hành mọi sự phân công của Đảng.
Suốt cuộc đời mình, đồng chí Nguyễn Văn Linh hết lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, gắn bó với nhân dân, hiểu dân, tin dân, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của dân, biết chắt lọc trí tuệ của nhân dân để đóng góp cho Đảng; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Bằng thái độ chân thành, cởi mở, cách ứng xử khiêm tốn, tình nghĩa, trân trọng, lắng nghe ý kiến của các đồng chí khác, cho dù ý kiến đó trái với ý kiến của mình, Đồng chí đã được đồng chí, đồng bào tin yêu, kính trọng.
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Sự nghiệp đổi mới mà Đảng và Nhân dân ta đang tiến hành, qua gần 30 năm, đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đường lối, chủ trương và biện pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế của Đảng đã và đang làm cho đất nước hằng ngày, hằng giờ thay da đổi thịt. Nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Đó là cơ sở để nhân dân tin tưởng vào Đảng, vào chế độ, vào thành công của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những thành tựu đó được bạn bè quốc tế đánh giá cao đang tạo ra tiền đề và những điều kiện thuận lợi để nước ta tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn trong những năm tới. Tuy nhiên, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế; tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; đất nước ta đứng trước thời cơ và vận hội mới và cũng đang phải đương đầu với những khó khăn và thách thức to lớn, đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải tiếp tục có những nỗ lực phấn đấu cao hơn, quyết liệt hơn, đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ và có hiệu quả hơn để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Linh, ôn lại cuộc đời và sự nghiệp, công lao và phẩm chất, đạo đức cách mạng của Đồng chí, chúng ta càng trân trọng, tự hào, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đồng chí và nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã vạch ra. Học tập, noi gương đồng chí Nguyễn Văn Linh và các bậc cách mạng tiền bối khác, chúng ta tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa Cương lĩnh, đường lối của Đảng, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, lãnh đạo toàn dân ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chuẩn bị và tiến hành tốt đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vinh quang đời đời thuộc về dân tộc ta – dân tộc Việt Nam anh hùng; thuộc về Đảng ta – Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; thuộc về các thế hệ người Việt Nam đã hy sinh phấn đấu quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Xin chúc các vị đại biểu, các đồng chí và đồng bào mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn.
(Theo Chính Phủ)

Bộ trưởng Trần Đại Quang tiếp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Hoa Kỳ

Chiều 30/6/2015, tại Hà Nội, Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam tiếp Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Nội vụ Hoa Kỳ do bà Sally Jewell, Bộ trưởng dẫn đầu nhân chuyến thăm, làm việc tại Việt Nam. Dự buổi tiếp có Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.
Tại buổi tiếp, thay mặt Bộ Công an Việt Nam, Bộ trưởng Trần Đại Quang nhiệt liệt chào mừng Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Nội vụ Hoa Kỳ do Bộ trưởng Sally Jewell dẫn đầu đến thăm và làm việc với Bộ Công an đúng vào dịp kỷ niệm 20 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ (11/7/1995-11/7/2015); bày tỏ vui mừng kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, quan hệ hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ đã có những bước phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó quan hệ giữa các cơ quan thực thi pháp luật ngày càng đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực, góp phần làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước; vì lợi ích, an ninh của mỗi nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên toàn thế giới.
Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Trần Đại Quang và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Hoa Kỳ Sally Jewell.
Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Trần Đại Quang và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Hoa Kỳ Sally Jewell.
Bộ trưởng Trần Đại Quang nhấn mạnh: Vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường nói chung, bảo vệ các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm nói riêng là vấn đề cấp bách hiện nay của các quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm đến công tác này, ban hành các đạo luật và văn bản dưới luật; chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai quyết liệt nhiều giải pháp; chủ động phối hợp với cộng đồng quốc tế tích cực bảo vệ tài nguyên, môi trường, góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước bền vững. Bộ Công an Việt Nam mong muốn tiếp tục hợp tác sâu rộng, có hiệu quả với các cơ quan thực thi pháp luật Hoa Kỳ nói chung, Bộ Nội vụ Hoa Kỳ và Đại sứ quán Hoa Kỳ nói riêng trong đấu tranh với loại tội phạm này; đặc biệt là sự phối hợp trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn và hỗ trợ về cơ sở vật chất; góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại Việt Nam…
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Hoa Kỳ Sally Jewell đánh giá cao những kết quả, thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm; khẳng định Việt Nam đã hợp tác, tích cực, tham gia hiệu quả nhiều chiến dịch phòng, chống tội phạm môi trường, bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm, nguy cấp do các tổ chức quốc tế phát động; mong muốn trong thời gian tới mối quan hệ hợp tác, phối hợp giữa Bộ Công an Việt Nam – Bộ Nội vụ Hoa Kỳ sẽ đạt được nhiều kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở mỗi nước…/.
(Theo Bộ Công An)

Đôi dòng về gã Luật sư trốn thuế Lê Quốc Quân!

Theo dân làm báo – trang mạng lá cải nhảm nhí và phản động nhất nhì làng dân chủ Viêt đưa tin thì nhà luật sư dân chủ kiêm tội phạm trốn thuế Lê Quốc Quân sắp mãn hạn tù về hành vi “trốn thuế”. Tin này có vẻ vui với làng dân chủ, bởi sắp tới chúng sẽ có thêm đề tài mới để viết bài, châm chích, nói xấu, lợi dụng hình ảnh của Lê Quốc Quân để kiếm tiền, trục lợi cá nhân,.. thế nên cả lũ chó săn dân chủ đang rất nóng lòng hóng ngày về của Lê Quốc Quân.
Chuyện đời và sự nghiệp trộm cắp của Lê Quốc Quân lão đây đã viết khá nhiều bài để phản ánh cho dư luận được rõ. Gã Lê Quốc Quân là một luật sư phản trắc, lợi dụng danh nghĩa Luật sư, sự am hiểm về pháp luật để tiến hành trục lợi cá nhân, trốn thuế của Nhà nước và dùng làm vỏ bọc để hoạt động kinh doanh dân chủ nhân quyền. Đối với Lê Quốc Quân, để có tiền gã chẳng từ thủ đoạn nào, mang danh là một kẻ có học, nhưng hành vi trộm cắp “trốn thuế” của gã chẳng khác gì một kẻ vô học, thậm chí không bằng mấy đứa cái bang ăn xin ở cầu Long Biên. Những thứ mà Lê Quốc Quân kiếm chác được từ việc trốn thuế và kinh doanh dân chủ để dùng để phục vụ cho nhu cầu ăn chơi cá nhân của gã, chẳng liên quan đếch gì đến việc vì dân, yêu nước cả, mà thậm chí còn là hành vi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân, tổn hại đến ngân sách nhà nước. Thế nhưng các nhà dân chủ Việt lại tung hô, hâm nóng tên tuổi của y bằng danh hiệu “luật sư vì dân” nghe tởm vãi.
Q
Bài viết mới nhất ca ngợi Lê Quốc Quân đăng trên dân làm báo

Lê Quốc Quân và sự thật về lòng yêu nước

Ngày 2/10/2013, Lê Quốc Quân bị TAND TP. Hà Nội đưa ra xét xử sơ thẩm với tội danh trốn thuế. Nhân cơ hội này, các nhà “rận chủ” của chúng ta đã tổ chức các cuộc diễu hành phản đối, treo băng rôn, khẩu hiệu để đòi trả tự do cho vị luật sư này; đồng thời đây cũng là dịp để các anh, các chị tự phong cho mình là các nhà đấu tranh vì tự do dân chủ của Việt Nam lên tiếng phản đối Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền con người, thực thi pháp luật một cách độc đoán được thể hiện “lòng yêu nước của mình”. Vậy, sự thực của cái gọi là “lòng yêu nước” của các vị ấy như thế nào, chúng ta sẽ cùng bàn luận:
Trước hết, về phía luật sư Lê Quốc Quân – người đang được hàng trăm nghìn người lên tiếng ủng hộ. Có thể nói, chỉ lướt qua về tiểu sử bản thân ở một vài điểm chính về con người Lê Quốc Quân, ít ai có thể ngờ tới về định nghĩa “yêu nước” mà chính Quân đã tự trang bị cho mình. Theo Quân, yêu nước là phải thể hiện bằng những hành động như: Lên tiếng ủng hộ và quan hệ tốt với các tổ chức, các nhân có họat động chống phá Nhà nước Việt Nam như Quỹ Quốc gia hỗ trợ dân chủ Mỹ (NED), các nghị sĩ Mỹ có quan điểm chính trị thiếu thiện chí đối với Việt Nam (Loreta Sanchez, Smith); hay có quan hệ với các đối tượng có thành tích bất hảo trong việc chống đối Nhà nước Việt Nam như Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Tiến Trung…Cũng cách đây không lâu, “lòng yêu nước” của Quân lại được thể hiện bằng việc ủng hộ các giáo dân giáo xứ Thái Hà lấn chiếm đất đai trái pháp luật tại địa chỉ 178 Nguyễn Lương Bằng…. Và còn nhiều nhiều những “thành tích yêu nước” của Quân hơn nữa mà tác giả không kể hết được ra. Chỉ biết rằng, những cái gọi là “thành tích yêu nước” đó sao đối với người dân Việt Nam nó xa lạ quá, nó khác người quá và nói đúng ra là nó quái đảm biết nhường nào? Trong khi cả nước ta, cả đồng bào ta đang ra sức xây dựng đất nước theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đang cố gắng hết sức để đưa nền kinh tế xã hội của nước nhà phát triển lên một tầm cao mới, cải thiện đời sống dân sinh. Ấy vậy mà, con người có chứng chỉ hành nghề luật sư như Lê Quốc Quân lại đi thể hiện “lòng yêu nước” của mình như thế đó. Có đáng không hả luật sư Quân?
Đối với luật sự Quân đã thế, thử coi lại hàng trăm nghìn người đang theo gót Quân mấy ngày hôm nay xem thế nào, có một số hình ảnh cho các bạn dễ theo dõi về “lòng yêu nước” của họ được thể hiện:
1 
Biểu tình đòi thả tự do cho Lê Quốc Quân trên một đường phố tại Hà Nội
 2 
Học sinh, sinh viên là lực lượng đông đảo trong cuộc biểu tình đòi tự do cho phạm nhân Lê Quốc Quân
 3Hàng trăm người biểu tình đã chặn một ngả đường chính tại Hà Nội vào giờ cao điểm gây tắc nghẽn giao thông
Thật nực cười, trong khi quá nhiều người nắm rõ về lai lịch, tiểu sử bất hảo của Lê Quốc Quân,, ấy vậy mà dòng người đó vẫn hòa vào các cuộc biểu tình để ủng hộ, đòi thả tự do cho vị luật sư này. Ở đây, “lòng yêu nước” của họ lại được thể hiện một cách hơi khác so với bình thường, chính họ đã ngụy tạo cho bản thân những tình cảm và hành động yêu nước độc đáo. Trớ trêu thay, có khá nhiều người đang làm như thế.
Đến đây, tác giả lại nghẹn lòng khi nghĩ về cảnh tượng của người dân miền Trung đang gồng mình lên chống chịu những ảnh hưởng của thiên tai bão lũ. Mảnh đất đầy khó khăn gian khổ, nay lại càng vất vả hơn với hậu họa của thiên nhiên. Thế mà, ở thủ đô nghìn năm văn hiến đang có đông đảo người nghe theo lời xúi giục của bọn phản động để đi cổ súy cho một tên chẳng ra gì. Sao bản thân họ không thể hiện lòng yêu nước bằng cách giúp đỡ, động viên hàng chục nghìn người dân miền Trung khắc phục hậu họa thiên tai, hay chí ít thì cũng đừng hà hơi nghe theo các nhà “rận chủ” phách lối để cho xã hội được bình yên. Đối với họ bây giờ, câu hỏi “lòng yêu nước đã đặt đúng chỗ hay chưa?” cần thiết phải đặt ra!

Đôi dòng cho ngày về của Lê Quốc Quân!

Theo lịch dự kiến vào ngày 28 tháng 6 này nhà dân chủ trốn thuế Lê Quốc Quân sẽ được mãn hạn tù. Cái giá phải trả cho những hành vi “trốn thuế” của Lê Quốc Quân là những ngày tháng bóc lịch, cải tạo trong nhà giam của Nhà nước Việt Nam. Theo Lão thì hình phạt này hơi nhẹ, bởi những tội trạng của một luật sư, là người học hành đàng hoàng về Luật, là người đại diện cho luật pháp nhưng lại “trốn thuế”, trốn đi quyền cơ bản của công dân là hành vi quá bẩn thỉu, hèn hạ, đáng lên án. Bên cạnh đó, thành tích lợi dụng danh nghĩa luật sư yêu nước để hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của Lê Quốc Quân đã làm chấn động dư luận một thời gian dài, gây ảnh hưởng xấu cho hình ảnh của những luật sư chân chính ở Việt Nam. Trong thời gian xảy ra vụ án của Lê Quốc Quân, gã được lũ chấy Rận ở Việt Nam tập trung lăng xê, kêu gào nhằm đẩy sự việc lên đến đỉnh điểm, làm cho vụ án này trở nên nghiêm trọng. Đặc biệt khi các tổ chức phi chính phủ nhòm ngó, tìm mọi sơ hở của Việt Nam để tiến hành các hoạt động tuyên truyền, đưa ra những tuyên bố gây bất lợi cho tình hình chính trị của Việt Nam. Hình phạt 30 tháng tù giam e rằng chưa đủ để Lê Quốc Quân sám hối, bởi thời gian ở tù gã cũng bày ra đủ thứ trò hề nhằm hâm nóng tên tuổi, mong chờ ngày xuất ngoại như chú Vũ, nhưng giấc mơ của gã đã không thành hiện thực. Tuy nhiên, Pháp luật Việt Nam vốn phân minh, chính sách khoan hồng, nhân đạo luôn đặt lên hàng đầu, thế nên mặc dù có hành vi vô cùng bẩn thỉu, Lê Quốc Quân vẫn bị xử với một bán án nhẹ hều. Một thực tế đau lòng là dù Lê Quốc Quân hay Bùi Hằng cố gắng bày mọi trò hề để khuếch trương thanh thế, hâm nóng tên tuổi đến đâu đi nữa thì cũng chìm vào quên lãng khi các đối tượng Rận chủ ở trong và ngoài nước không tìm thấy lợi nhuận từ họ nữa, vứt bỏ họ như vứt một con chó già sắp chết ở ngoài đường như những kẻ nhẫn tâm. Ngày về của Lê Quốc Quân thật buồn khi chỉ được em zai và vài đối tượng viết đôi dòng chào đón, còn các đồng đảng cùng hoạt động rân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đang tập trung lăng xê cho những gương mặt mới, chờ đón những ngôi sao mới trong làng rân chủ nên sự việc Lê Quốc Quân ra tù chỉ là sự kiện quá đỗi bình thường. Những gương mặt mới nổi lên, thay thế cho vai trò, vị trí của Lê Quốc Quân, như chuyện con gà mái dân chủ Mẹ Nấm Gấu – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Việt Tân và HRW bỏ tiền mua cho cái giải nhân quyền quốc tế với trị giá giải thưởng hơn tỷ bạc,…hòng qua đó dùng lợi ích vật chất làm mờ mắt các đối tượng kinh doanh dân chủ, nhân quyền ở trong nước đã đẩy Nguyễn Ngọc Như Quỳnh lên hạng hàng hót. Hay chuyện một số đối tượng như Đoan Trang, Nguyễn Lân Thắng, Hải Điếu Cày,…ngày càng xuất hiện rầm rộ, đưa ra những tuyên bố khủng trên các trang mạng xã hội đã làm mờ tên tuổi của Lê Quốc Quân. Có thể kết luận rằng Lê Quốc Quân cũng đã hết giá trị lợi dụng, sau khi ra tù, không biết gã sẽ làm được những gì hoành tráng. Tuy nhiên từ thực tế chuyện đối nhân xử thế của làng rận chủ, có lẽ Lê Quốc Quân đã thấm được bản chất về sự đoàn kết của đồng bọn, sự chia sẻ, quan tâm của dư luận rận “đểu cáng” như thế nào đối với gã.
quânBài viết quảng cáo cho anh zai của Lê Quốc Quyết đăng trên dân làm báo
Theo lời chém gió của Lê Quốc Quyết-em zai ruột của gã luật sư trốn thuế Lê Quốc Quân, thì để chào đón ngày về của Lê Quốc Quân, 11 tổ chức quốc tế đã đồng loạt viết thư gửi đến ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước và ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tưởng Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, chuyện này đếch có thật, và những khoa trương trên chỉ là những lời chém gió của Lê Quốc Quyết nhằm cứu vãn chút danh dự đã mất của anh zai mình. Đồng thời, những tổ chức này được liệt kê gồm một loạt những tổ chức không tên tuổi, danh xưng tầm thường, chẳng có tiếng nói gì trên trường quốc tế. Những yêu cầu vô lý mà Lê Quốc Quyết mang danh các tổ chức này đòi hỏi là khôi phục địa vị Luật sư cho Lê Quốc Quân, chuyện này e rằng khó, bởi Lê Quốc Quân mặc dù mang thân phận luật sư, nhưng lại lợi dụng những khe hở của pháp luật để thực hiện hành vi trộm cắp bẩn thỉu, đó là trộm cắp tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Với hành động này liệu Lê Quốc Quân còn đủ tư cách đại diện cho pháp luật, còn mặt mũi nào ngồi trên cương vị luật sư? Còn chuyện Lê Quốc Quân về lành lặn hay không thì Lão có thể khẳng định rằng Lê Quốc Quân thậm chí còn ngon zai hơn, chẳng sứt mẻ chút nào, bởi nhà tù cộng sản không giống với nhà tù của lũ mọi rợ Việt Nam cộng hòa trước đây luôn dùng những thủ đoạn tra tấn dã man những người tù cộng sản hơn cả thời trung cổ. Xét về độ dã man, tàn bạo có lẽ chế độ cộng sản ở Việt Nam không đủ tầm để sánh ngang hàng với Việt Nam cọng hành mà Việt Tân và lũ chấy rận trong nước đang thờ phụng.
Thật tội nghiệp cho Lê Quốc Quân khi ngày về bị quên lãng, Việt Tân chẳng dòm ngó, chỉ có em zai chuyên tâm viết bài chào đón. E rằng đã đến lúc Lê Quốc Quân nhìn lại mình, biết phục thiện để quay trở lại con đường làm người , bởi đời dân chủ nó bạc bẽo, tình cảm dân chủ nó khốn nạn hơn bất cứ cái khốn nạn nào trong xã hội này.
Trần ái Quốc

Trào lưu Kiss cam thứ văn hóa ngoại lai độc hại!

Trong cư dân mạng mấy hôm nay đang rộ lên trào lưu KISS CAM (hôn trộm người lạ) một trào lưu lấy cảm hứng từ clip First Kiss ra đời năm 2014 của đạo diễn Tatia Plleva, trào lưu này mang một ý nghĩa nhân văn khi ghi lại những cảm xúc đầu tiên, chân thật khi các cặp đôi không quen biết lần đầu trao nhau nụ hôn ngọt ngào đưa lai thông điệp về tình yêu không biên giới, làm cho chon người xích lại gần nhau, mang lại cảm hứng sống mới, giúp họ vượt qua nhiều rào cản xã hội để tìm đến tình yêu đích thực của đời mình.
Tuy nhiên khi vào Việt Nam, trào lưu KISS CAM lại biến thành trào lưu cưỡng hôn người lạ, một trò lố lăng, trái với thuần  phong mỹ tục của người Việt Nam. Chuyện này biến tướng và tạo thành những cơ hội cho các đối tượng kinh doanh dân chủ dân quyền ở Việt Nam tiến hành các bài viết xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam nói riêng và nền văn hóa Á Đông nói chung. Đồng thời đây cũng là cơ hội cho những kẻ thích đùa dai, những tội phạm về tình dục có cơ hội đùa giỡn người khác giới hay có thể gọi là hành vi quấy rối tình dục nơi công công. Cũng là cơ hội để cho các căn bệnh truyền nhiễm có liên quan đến đường miệng, đường hô hấp có cơ hội phát tán, lây lan, đặc biệt khi đại dịch Mers đang bùng phát ở Châu Á. Nói tóm lại là trò này chẳng có gì vui, đặc biệt lợi bất cập hai khi nó được áp dụng ở Việt Nam.

Nhân sự kiện này Lão có đôi dòng như sau:

Văn hóa Á Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng không chấp nhận những hiện tượng “hôn hít nhau nơi công cộng”, cho dù đó có là hành động của những kẻ đang yêu nhau. Những biểu hiện của các bạn trẻ ở Việt Nam thời gian qua ở nơi công cộng, những cờ lip của những bạn trẻ trâu hôn hít nhau đăng lên mạng đã làm vấy bẩn sự trong sạch của văn hóa Việt, gây bức xúc trong cộng đồng. Người ta yêu nhau cũng nên tìm nơi kín đáo để hôn hít, huống hồ những kẻ không quan biết đi “đánh cắp nụ hôn” hay “cưỡng hôn” là hành động không thể chấp nhận được ở Việt Nam, cần loại trừ ngay lập tức trào lưu ngớ ngẩn này.
uovu1435139255-bjoaanh_6_betzHôn trộm người lạ, một trào lưu không phù hợp với văn hóa Á Đông
Đây chính là cơ hội cho các loại bệnh tật có liên quan đến đường hô hấp bùng phát, đặc biệt là các bệnh về răng miệng, cũng chính là cơ hội để những kẻ “đa dâm” tiến hành trò chơi hòng “quấy rối tình dục” nơi công cộng.
Chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội, trong đó có bạo lực xã hội chắc chắn sẽ xảy ra, bất kể người thực hiện hành vi này có biện minh như thế nào đi nữa. Giả dụ những cặp tình nhân đang đi dạo phố, có những kẻ tự nhiên xông vào để hôn hít bạn gái, hay bạn trai của họ, chắc chắn gây ra những nghi ngờ, chia rẻ cho họ và nguy cơ bị cho ăn đấm, gẫy răng là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như lão đây đang đi với con gái dạo phố, mà đứa nào xông vào cưỡng hôn con gái lão thế nào lão cũng cho vài quả đấm cảnh cáo.
Nụ hôn đối với người Á Đông nói chung và đặc biệt là người Việt Nam nói riêng là thiêng thiêng, là quý giá, đặc biệt là nụ hôn đầu đời. Vì vậy, nó nên được dành đúng nơi, đúng chỗ, có sự tự nguyện từ hai phía. Hãy để nụ hôn trở về đúng nghĩa của nó, mang lại ý nghĩa cao đẹp cho cuộc sống, thúc đẩy xã hội phát triển.
Nụ hôn cũng là một nét đẹp văn hóa của người Việt Nam, đừng để cho những trò lố lăng này gây mất đi hình ảnh tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trần ái Quốc

25/6/15

Xem ra Trung Quốc quyết cướp biển Đông đến cùng!

Trần Ái Quốc – Trung Quốc rộng vai nhưng hẹp lòng!
Vì giấc mộng Trung Hoa, Trung Quốc không từ bất cứ thủ đoạn nào, từ việc sử dụng sức mạnh quân sự để tiến hành các hoạt động bất hợp pháp tại biển Đông đến việc ngụy tạo lịch sử để cố chứng minh rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Buồn cười khi lấy cái mốc lịch sử là 1947 để so sánh với những bằng chứng lịch sử hàng ngàn năm của thế giới, lấy những bằng chứng chắp nối không liên mạch để đi minh chứng cho cái không có, cái vô lý mà với lợi thế về quân sự hùng mạnh, dùng sức mạnh kẻ lớn để buộc những nước nhỏ hơn phải nghe theo. 
Theo Giáo sư sử học Vũ Minh Giang – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngay từ khi cho quân đội đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974, Trung Quốc đã huy động một lực lượng đông đảo  các học giả tiến hành kê cứu và biên soạn một cuốn sách đồ sộ, ra sức chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà TQ gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền TQ.

Từ những năm 1980, bộ sách “Ngã quốc nam hải chư đảo sử liệu hối biên” (tập hợp các sử liệu về các đảo của nước ta ở vùng biển phía nam), dày 800 trang, nhanh chóng trở thành cơ sở lập luận chủ yếu cho các tuyên bố của Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông. Thực chất, cuốn sách này là những trò cắt xén tư liệu, giấu bối cảnh lịch sử, gán cho chúng những ý nghĩa mà bản thân chúng không có.  Ví dụ trong sách Dị vật chí (ghi chép về những vật lạ), câu được chép ra là: “Trướng hải kỳ đầu thủy thiển nhi đa từ thạch…” (biển sóng triều dâng gập ghềnh đá ngầm, nước cạn mà nhiều đá nam châm…). Các tác giả giải thích rằng, Trướng hải là tên gọi biển Đông của người TQ thời đó và vùng đá ngầm dưới có từ tính nam châm là chỉ hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).  Hay có những đoạn trích khác chỉ là “nghe truyền rằng” biển lớn phía đông có Trường Sa thạch đường rộng vạn dặm… Những câu trích dẫn này thực ra chỉ là những ghi chép về các hiện tượng mà các tác giả cho là lạ, chứ hoàn toàn không có ý nghĩa gì về việc phát hiện, đặt tên đảo, nên không thể coi là chứng lý về chủ quyền. TQ hoàn toàn tay trắng với những chứng cứ lịch sử để khẳng định và thực thi chủ quyền, chỉ tập hợp những cái vá víu và to mồm lu loa lên mà thôi.
Chắp vá chứng cứ đã là một điều lừa đảo trái với đạo đức và pháp luật quốc tế, trái với con đường xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc đang dày công xây dựng, trái với “đạo nhân” mà Trung Quốc đang rao giảng, nhưng vì “giấc mộng Trung Hoa” các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang sẵn sàng biến những điều “ngớ ngẩn” thành bằng chứng hòng cướp trắng biển Đông của các nước có chủ quyền trên biển theo Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982.
Ngoài việc hèn hạ lợi dụng tình hình ngoại giao giữa Trung Quốc và Mỹ để cướp trắng Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974, Trung Quốc còn liều lĩnh và ngạo ngược đến mức dùng vũ lực giết hại 64 anh hùng liệt sỹ quân đội nhân dân Việt Nam đang làm nhiệm vụ xây dựng nhà giàn trên đảo Gạc Ma, Len Đao và Cô lin vào ngày 14/3/1988.
Với những đảo đã cướp được, chúng đang tăng cường xây dựng các rặng san hô và các bãi đá ngầm thành các bãi nổi để thành lập các khu đồn trú và hiện thực hóa “giấc mộng Trung Hoa” về đường lưỡi bò và âm mưu độc chiếm biển Đông, biến biển Đông thành sân nhà của mình, qua đó thao túng con đường Hàng hải và Hàng không quan trọng của Châu Á Thái Bình Dương.

Trung Quốc đang tích cực xây dựng trái phép các bãi đá ngầm và San hô ngầm trên bãi đá Tư Nghĩa, thuộc cụm đảo Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Trung Quốc đang tiến hành cải tạo đất trái phép không phải trên 1 mà là 5 khu vực – đá Gạc Ma, đá Châu Viên, đá Tư Nghĩa, đá Ga Ven và đá Én Đất – thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Nếu những đảo này được hoàn thành thì con đường hàng hải quốc tế sẽ vô cùng khó khăn và Trung Quốc sẽ chi phối và biến biển Đông thành sân nhà của riêng họ còn các nước có chủ quyền đối với biển Đông lại trở thành những kẻ yếu thế hơn và phải phụ thuộc vào Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến biển và kinh tế biển.
Ngoài việc tích cực xây dựng các bãi đá ngầm, biến các bãi đá ngầm thành các bãi nổi để dễ bề thực hiện âm mưu độc chiếm biển Đông, việc Trung Quốc tiếp tục cho quân đội đóng tại các bãi đá thộc chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Trường Sa đang vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế và làm phức tạp, căng thẳng hơn tình hình trên biển Đông.
Và hiện nay, việc Trung Quốc đang tiếp tục tiến hành duy trì Giàn Khoan nước sâu HD981 cùng hàng trăm tàu hộ tống liên tục gây hấn trên vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đang khẳng định các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang quyết tâm theo đuổi và làm cho giấc mơ của Trung Quốc trở thành hiện thực. Dĩ nhiên Mỹ và các nước có quyền lợi liên quan đến biển Đông sẽ không để Trung Quốc được yên để thực hiện giấc mơ này, nhưng Trung Quốc quên mất rằng đang thách thức dân tộc Việt Nam anh hùng, đang cướp đi những mét nước thân yêu mà cha ông của dân tộc Việt đã giữ gìn và vun đắp. Trung Quốc đang vừa ăn cướp vừa la làng trên biển Đông, vừa thể hiện văn hóa của một kẻ chính nhân, vừa tráo trở, ngụy biện và lọc lừa như những tên cướp biển, thậm chí chúng còn bẩn thỉu và vô đạo đức hơn cả những tên cướp biển. Cái giá mà Trung Quốc phải trả là sự mất lòng tin của quốc tế và Trung Quốc, sự sụt giảm nghiêm trọng về quan hệ đối ngoại giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là nguy cơ về một cuộc chiến tranh để giải quyết tranh chấp về chủ quyền trên biển Đông. Xin nhắc lại Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, xin khẳng định rằng Trung Quốc không có căn cứ gì để tranh chấp đối với chủ quyền biển đảo đối với Việt Nam và các nước trong khu vực có liên quan. Là một nước lớn, Trung Quốc nên tôn trọng luật pháp quốc tế, nên biết giới hạn của mình đến đâu, đừng để phải trả giá vì sự ngạo ngược và manh động mà cha ông họ đã phải nếm mùi trong lịch sử. Tuy nhiên có một thực tế chúng ta cần nhìn nhận đúng, việc giàn khoan HD981 của Trung Quốc trước sau gì cũng phải rút, nhưng những bãi đá nhân tạo và những căn cứ quân sự mà Trung Quốc đang xây dựng thì sẽ tồn tại trên thực tế trong thời gian tới, Trung Quốc đang chơi trò nghi binh để thu hút dư luận quốc tế tập trung vào cái nhà giàn di động mà quên mất chúng đang hiện thực hóa đường lưỡi bò bằng việc xây dựng các căn cứ nhà giàn, các khu đồn trú trên biển Đông một cách liên tục. Xem ra việc Trung Quốc quyết tâm cướp biển Đông đã là vấn đề hiện thực được khẳng định, vấn đề là sức mạnh của lòng yêu nước và lẽ phải của dân tộc Việt Nam khi đấu tranh trên nghị trường quốc tế sẽ như thế nào để buộc Trung Quốc phải chấm dứt ngay các hành động vi phạm pháp luật và chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông.
Trần Ái Quốc

Thánh vật sông To Lịch – Tác phẩm của gã hàng xóm xấu bụng

songtolich2
1. Tóm lược sự việc thánh vật sông Tô Lịch
Tóm lược sự việc như sau, vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú – Phường Nghĩa Đô – Quận Cầu giấy – HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng. Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ; Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít. Một năm sau sự việc trên, có hàng loạt sự kiện ngẫu nhiên xẩy ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12, là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.
Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch. Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết. Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên.
2. Tác phẩm của Cao Biền
Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng, sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ. .
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng, vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa – Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU…Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh – HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này, và đây cũng chính là tác phẩm Cao Biền để lại trên sông Tô Lịch mà năm 2001 chúng ta phát hiện ra gây xôn xao dư luận.
Trước khi sang nước Nam, vua Đường cho vời Cao Biền vào và nhủ rằng : “Công học địa lý, tối vi linh diệu, trẫm văn An nam đa hữu thiên tử quý địa, Công đương dụng lực ngụ mục, hoặc hữu áp chi, triển bình sinh chi kinh luân, thuật thánh hiền chi quy củ, đoạt thần công nhi cải thiên mệnh, nhiên vi tiễu thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu lệ, tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên, nhất nhất diễn ca lập kiểu, trẫm đắc tiện văn giả..
Dịch ra có nghĩa là:
“…Khanh học địa lý tối vi linh diệu, trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa kết phát tới thiên tử, sản xuất ra nhiều nhân tài, anh kiệt nên luôn luôn nổi nên chống đối. Qua bên đó, khanh nên tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên và làm tờ tấu biểu kèm theo lời diễn giải các kiểu đất, gửi về cho Trẫm xem trước. Rồi ở bên đó khanh đem tài kinh luân, đoạt thần công, cải thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất đó đi. Đó là cách nhổ cỏ thì nhổ tận gốc vậy, để tránh hậu họa sau này…”
Cao Biền vâng lệnh sang Việt nam, ông đã bỏ công xem xét. Và nhận thấy rằng có một mạch đất cực lớn thuộc loại Đại cán long xuất phát từ Côn Lôn sơn chạy qua, đến Việt nam chia làm ba chi lớn, trong đó có tới 27 ngôi đất kết phát tới thiên tử, còn lại là hàng nghìn ngôi đất lớn nhỏ kết phát các anh tài kiệt xuất. Ông đã xem xét. Ghi chép, diễn ca được 632 huyệt chính, 1517 huyệt bàng thuộc các tỉnh trên lãnh thổ Bắc Việt Nam:
Hà Đông: 81 chính, 246 bàng
Sơn Tây : 36 chính, 85 bàng
Vĩnh yên, Phúc yên, Phú thọ : 65 chính, 155 bàng
Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An : 183 chính, 483 bàng
Gia Lâm, Bắc ninh, Đáp cầu, Bắc giang, Lạng sơn : 134 chính, 223 bàng
Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình : 133 chính, 325 bàng
(chi tiết các địa danh huyệt kết và diễn ca này xin để dịp khác vì dài dòng quá, tôi không đưa vào đây)
Sau khi thống kê, diễn giải tường tận, Cao Biền làm sớ tấu gửi về cho vua Đường Trung Tông. Bản tấu này có tên là “Cao Biền Tấu thư địa lý kiểu tự”. Bản tấu thư này được nhà Đường cất giữ rất bí mật, coi là bí thư.
Ở Việt nam, Cao Biền tiến hành trấn yểm các kiểu đất lớn. Thủ pháp của Cao Biền để trấn yểm là : Bắt đồng Nam, đồng Nữ, mổ bụng moi hết nội tạng, sau đó nhét cỏ bấc vào trong, cho ngồi giả phụ đồng. Sau đó đăng đàn làm phép, khu thần tróc quỷ, gọi các thần linh cai quản các ngôi đất lớn đến nhập đồng. Nếu thấy các tử thi cử động thì liền dùng gươm phép tẩm máu gà, máu chó mà trừ khử cho mất thiêng đi.
(Theo thuật Địa lý, một ngôi đất kết là do khí mạch của đất thăng lên, và các ngôi đất đó do các thần linh cai quản nuôi dưỡng, đất càng lớn thì thần linh càng mạnh. Cho nên khi trấn yểm, nếu muốn phá được ngôi đất ấy thì trước hết phải trừ được thần linh cai quản, sau đó mới yểm bùa, triệt phá. Do vậy nếu nói về Địa lý, ngoài việc nghiên cứu lý thuyết, muốn làm thầy, táng được huyệt còn phải có tài khu thần tróc quỷ, sai khiến quỷ thần mới có thể đặt được các ngôi đất lớn. Nếu không có phép ấy, ắt sẽ bị phản hại mà mang họa vào thân)
Cao Biền đã tiến hành trấn yểm các ngôi đất lớn nhưng hầu hết đều thất bại, chuyện đó sẽ nói tiếp trong kỳ sau.
Trở về với ngôi đất thành Thăng long, Cao Biền đã diễn ca ngôi đất như sau :
Thăng Long đệ nhất đại huyết mạch, Đế vương quý địa :
Giao châu hữu chi địa -(đất Giao Châu có một ngôi đất)
Thăng long thành tối hùng -(thăng long tối hùng mạnh)
Tam hồng dẫn hậu mạch -(ba con sông lớn dẫn hậu mạch, tiếp khí cho mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà).
Song ngư trĩ tiền phương -(hai con cá dẫn đường, chính là bãi Phúc Xá ngoài sông Hồng)
Tản lĩnh trấn Kiền vị -(núi Tản Linh trấn tại phương Kiền – tây bắc)
Đảo sơn đương Cấn cung -(núi tam Đảo giữ phương Cấn – Đông bắc)
Thiên phong hồi Bạch hổ -(nghìn ngọn núi quay về Bạch hổ)
Vạn thủy nhiễu Thanh long -(muôn dòng nước từ ba con sông Thao, Lô, Gâm đều tụ lại tại nga ba Việt trì, chảy về nhiễu Thanh Long)
Ngoại thế cực trường viễn -(thế bên ngoài rất rộng và xa, tất cả cá núi non trên suốt mạch sông Hồng từ Việt trì đến Ninh Bình đều chầu về)
Nội thế tối sung dong -(thế bên trong rất mạnh mẽ, đầy đặn)
Tô giang chiếu hậu hữu -(sông Tô lịch dẫn mạch từ phía sau, bên phải)
Nùng sơn cư chính cung -(núi Nùng đóng tại chính cung)
Chúng sơn giai củng hướng -(tất cả núi non đều hướng về rất đẹp)
Vạn thủy tận chiều tông -(là nơi tận cùng, hợp lưu của mọi dòng nước từ thượng nguồn dẫn khí mạch về)
Vị cư cửu trùng nội -(là nơi ở của vua chúa (cửu trùng), đất làm kinh đô)
Ức niên bảo tộ long -(có thể bền vững tới 10 vạn năm)
Cầu kỳ Hổ bất bức -(…….)
Mạc nhược trung chi đồng -(…….)
Mặc dù rất ngắn gọn, nhưng bài diễn ca trên đã nói nên cái thế đất của thành Thăng long cực lớn. Các nhà địa lý đời sau phân thế, gọi là Bát tự Phân lưu Hư hoa Hà nội (là nơi nước phân lưu như hình chữ bát). Trong bài diễn ca trên, ngoài các mô tả chung, cần chú ý tới mấy điểm đặc biệt :
Thứ nhất, là vị trí huyệt kết, thông thường định huyệt kết rất khó khăn, nhưng ở đây Cao Biền đã nói rõ “Nùng sơn cư chính cung”, đó chính là nơi huyệt kết chính cung. Núi Nùng bây giờ không còn nữa, mọi người thường nhầm với gò đất ở trong vườn hoa Bách thảo, theo các nhà khảo cổ đánh giá, có lẽ nó nằm tại vị trí gần khu Hoàng thành cổ, đền Bạch mã là khu vực chân núi.
Thứ hai, trong bài diễn ca trên, câu đầu tiên “Thăng long thành tối hùng”, rất nhiều người dịch là thành Thăng long, nhưng cái tên Thăng long là mãi đến đời Lý mới có. Theo ý kiến các nhà Địa lý, “Thăng long” ở đây có lẽ là nói về cái thế đất, khí mạch thăng lên. Mạch đang đi chìm, đến vị trí này nổi nên kết phát nên gọi là Thăng Long. Và đây cũng là một cơ sở của cái tên Thăng long sau này, chưa hẳn đã là theo truyền thuyết đức Lý thái tổ nhìn thấy rồng bay lên mà đặt tên. Quan điểm này còn nhiều tranh cãi.
Thứ ba, Trong bài diễn ca trên có hai câu cuối rất khó hiểu, nhiều người dịch, mỗi người một ý. Nhưng theo đa phần các nhà Địa lý đều thống nhất một ý như sau: (bỏ qua phần văn phạm dịch thuật). “Cầu kỳ Hổ bất bức, Mạc nhược trung chi đồng” có nghĩa là nếu không bức được Bạch Hổ thì bất quá cũng chỉ là nơi đồng không mà thôi.
Trong thuật Địa lý, nước dẫn khí mạch về để kết huyệt, Long Hổ hai bên lưu giữ khí mạch cho khỏi thoát, khỏi bị phong suy. Nhưng Thanh long là cát thần, ngôi trưởng, Bạch hổ là hung thần, ngôi thứ, cho nên Long phải dài hơn Hổ, phải nằm bên ngoài Hổ, phải khống chế được Hổ thì mới yên, ngược lại là loạn, thứ tất đoạt trưởng, sinh nhân hung ác, phản nghịch, tất sinh biến. Nếu khí mạch khi nhập huyệt mà lại nghịch hướng, hoặc quá lớn mà tản mát sẽ nuôi dưỡng cả Long và Hổ. Nếu nuôi dưỡng Long thì lành, nuôi dưỡng Hổ thì hung. Đối với thành Thăng Long, khi nhập huyệt, khí mạch được ba con sông Tô lịch, Kim ngưu, và Thiên phụ (cái tên sông này không biết có chính xác không, tôi chưa tra cứu được) dẫn về, trong đó sông Tô lịch nằm đằng sau, phía Phải hơi chệch đường, nuôi dưỡng cho Bạch hổ. Ba con sông này tập trung tại khu vực cuối đường Bưởi gần Hồ Tây, là chỗ mà người ta đã đào được trận đồ bát quái. Đây chính là nơi Thủy Khẩu.
Nhận thấy đây là một Quý địa, là nơi đế đô có thể bền vững tới 10 vạn năm, nếu trị được ngôi đất này có thể làm đất kinh đô được. Cho nên Cao Biền ra tay trấn yểm, không phải với mục đích là triệt phá thế đất Thăng long mà mục đích là khống chế khí mạch không cho nuôi dưỡng Bạch hổ nữa (Thực ra có muốn triệt phá cũng không thể đủ sức, đủ tài làm việc này, vì ngôi đất này cực lớn). Nơi trấn yểm được ông chọn là Thủy khẩu, nơi con sông Tô lịch dẫn khí mạch về bên Bạch Hổ. (xin chú ý đây là nói về nội Long và nội Hổ, vì thế đất Thăng Long có nhiều tầng Long Hổ). Với mục đích là chọn đất đặt Kinh Đô, nhằm đô hộ lâu dài đất Giao Châu.
Khi Cao Biền trấn yểm, có lẽ do linh khí núi sông linh thiêng, do anh linh bao đời của dòng giống Lạc Hồng bất khuất đã hiển linh xuất thánh, không để cho Cao Biền thực hiện ý định đóng đô lâu dài nên đã ra sức cản phá, kết hợp với nhân dân lúc bấy giờ tìm mọi cách ngăn cản cho nên Cao Biền đã thất bại. Ông đã không xây dựng được nơi chính huyệt, Cao Biền đành chuyển ra bên cạnh đóng đô nơi thành Long Biên, là tòa thành đã có từ trước. Cũng chính vì vậy mà sự nghiệp của Cao Biền ở nước Nam đã không kéo dài được. Và thành Long Biên sau này cũng chỉ là một thành nhỏ, trước đây không một đời vua nào đóng đô ở đây được lâu bền cả, như Mai Thúc Loan, Lý Bí … cũng đều đóng đô ở Long biên, nhưng chỉ được thời gian rất ngắn ngủi.
Các vị thần được phong là Thăng long Tứ Trấn đã có công giữ thành, giữ đất, đến nay vẫn được nhân dân Nam Việt biết ơn, thờ phụng. Công đức của các ngài gắn liền với đất Thăng Long – Hà Nội. Và các ngài đến nay vẫn giúp cho cháu con nước Việt gìn giữ một Kinh thành với thế đất nổi danh quý địa Bát tự phân lưu.
Chi tiết các đợt trấn yểm của Cao Biền sẽ được Trần Ái Quốc chuyển tải tới độc giả vào kỳ sau với tên: “Trấn yểm long mạch nước Nam – âm mưu thâm độc của phong kiến phương Bắc”.
Trần Ái Quốc