Phạm Văn Tuấn
Ông Abraham Lincoln luôn
luôn đặt tin tưởng vào nền Dân Chủ và đã chứng tỏ rằng chế độ Dân Chủ là
một hình thức chính quyền tốt đẹp và tồn tại rất lâu dài, bởi vì chế độ
Dân Chủ đã cung cấp cho mọi người dân cuộc sống đầy đủ Tự Do và nhiều
hy vọng phát triển. Các niềm tin và mục đích của ông đã được ông xác
nhận trong bài Diễn Văn Gettysburg, trong bài diễn văn nhậm chức Tổng
Thống lần thứ hai, trong các buổi nói chuyện và các bài viết khác nhau.
Ông Abraham Lincoln là đảng viên Cộng
Hòa đầu tiên đắc cử chức vụ Tổng Thống nhưng lại xuất thân từ một nguồn
gốc tầm thường để đạt tới chức vụ cao cấp nhất của quốc gia Hoa Kỳ. Ông
đã chứng tỏ một bản tính cao thượng, khiến cho mọi người trên Thế Giới
phải kính trọng.
Ông Abraham Lincoln đã giúp công rất
nhiều vào việc chấm dứt chế độ nô lệ. Ông là kiến trúc sư chính của cuộc
chiến thắng vẻ vang khi xẩy ra cuộc Nội Chiến Nam-Bắc Mỹ (1861-65). Đây
là cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự lớn lao nhất trong lịch sử của
nước Hoa Ky,ø thời đó còn đang cần được củng cố và ổn định. Ông Lincoln
là một vị lãnh tụ chiến tranh sáng suốt, đã ra lệnh cho các đạo quân
Bắc Mỹ tiến đánh mọi mặt trận vào cùng một thời gian để tiêu diệt các
đạo quân Miền Nam đối nghịch mà không cần chiếm giữ đất đai. Trong nhiều
lần, ông đã thay đổi các tướng lãnh chỉ huy vì các vị này đã không theo
đúng đường hướng chiến lược do ông đặt ra, cho tới khi ông gặp Tướng
Ulysses S. Grant, một vị tướng mà ông Lincoln yểm trợ hết lòng.
Trong cuộc chiến tranh Nam-Bắc Mỹ, nhiều
gia đình người Mỹ đã gặp cảnh anh em chém giết lẫn nhau. Ông Abraham
Lincoln đã thúc đẩy tinh thần chiến đấu của người dân vì lý tưởng Tự Do,
vì nền Dân Chủ, vì chủ trương giải phóng nô lệ. Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ
này là trận chiến đẫm máu nhất. Chỉ riêng trong trận Gettysburg, số tổn
hại lên tới trên 45,000 người, gồm những người bị giết, bị thương, bị
bắt và mất tích. Nếu phe Miền Bắc do Tổng Thống Abraham Lincoln điều
hành bị thất trận trong cuộc Nội Chiến này, thì ngày nay Hoa Kỳ không
còn là một quốc gia cường thịnh và quan trọng bậc nhất trên Thế Giới, mà
đã bị phân chia thành 2 nước, hay có thể thành nhiều nước nhỏ, như vậy
ông Abraham Lincoln đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới chiều hướng của Lịch Sử
Thế Giới.
Đời sống của người dân Hoa Kỳ dưới thời
của Tổng Thống Abraham Lincoln đã bị quay vòng theo chiến cuộc nhưng
chính trong các năm chinh chiến này, việc phát triển kinh tế đã đóng một
vai trò quan trọng. Ngân Hàng Quốc Gia đã cung cấp các loại tiền giấy
và việc kiểm soát tài chính liên bang đã bảo đảm dịch vụ ngân hàng và
tín dụng. Chính quyền Liên Bang thời đó đã đánh thuế lên các hàng hóa
nhập cảng từ châu Âu để giới hạn sự cạnh tranh từ bên ngoài và khuyến
khích việc phát triển kỹ nghệ trong nước. Chính quyền Hoa Kỳ cũng nâng
đỡ việc thành lập liên đoàn công nhân (labor unions), cung cấp đất đai
canh tác miễn phí cho các người định cư và trợ giúp di dân. Đất công
cũng được phân chia cho các Đại Học nhờ đó các Đại Học lớn của tiểu bang
được thành lập. Cũng vào thời gian này, đường xe lửa xuyên liên bang
được xây dựng và thuế lợi tức được áp dụng để có ngân khoản dùng cho
chiến tranh.
Dưới thời Nội Chiến của Tổng Thống
Abraham Lincoln, văn hóa vẫn phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như
bài thơ “Barbara Frietchie” của nhà thơ John Greenleaf Whittier, cuốn
truyện “Một người không quê hương” (the Man Without a Country) của
Edward Everett Hale, tác phẩm hội họa “Các tù binh từ chiến tuyến”
(Prisoners from the Front) của Winslow Homer và cũng vào thời kỳ khủng
hoảng này, nhiếp ảnh gia Mathew Brady cùng với các phụ tá, đã chụp hơn
3,500 tấm ảnh mô tả đầy đủ về con người, cảnh vật, trại quân, bãi chiến
trường . . . cùng các biến cố lịch sử khác.
Trước khi được bầu vào chức vụ Tổng
Thống Hoa Kỳ, rất ít người dân Mỹ biết tới tên tuổi của ông Lincoln. Ông
Abraham Lincoln đã nhận được dưới 40 phần trăm phiếu bầu phổ thông
(popular vote) trong cuộc tranh cử năm 1860 nhưng tới năm 1865, hình ảnh
của ông Abraham Lincoln đã ở tầm vóc quan trọng ngang bằng với ông
George Washington.
1- Thuở thiếu thời.
Abraham Lincoln chào đời ngày 12-2-1809
tại Hardin, ngày nay thuộc hạt Larue trong tiểu bang Kentucky. Ông nội
và cha của Abraham tên là Thomas, đã sinh ra tại hạt Rockingham, Va.,
còn ông tổ tên là Samuel Lincoln làm nghề dệt vải, đã từ miền Hingham
nước Anh tới Hingham, Massachusetts, năm 1637 và lập nên dòng họ Lincoln
tại nơi này. Người con của ông cụ Samuel tên là Mordecai, đã di chuyển
xuống New Jersey, Pennsylvania, rồi xuống Virginia và vì vậy, ông nội
của Abraham Lincoln cũng tên là Abraham, đã có một nông trại tại thung
lũng Shenandoah, Va.
Năm 1782, ông cụ Abraham cùng vợ và 5
người con nhỏ di chuyển tới miền hoang vu thuộc Kentucky rồi tại nơi
này, ông cụ Abraham bị người da đỏ giết chết vào năm 1786. Một trong các
người con của ông cụ này tên là Thomas, là cha đẻ của vị Tổng Thống
tương lai, sinh năm 1778 và đã sống thời niên thiếu không học vấn và
hành nghề thợ mộc. Năm 1806 vào tuổi 28, ông Thomas Lincoln đã kết hôn
với bà Nancy Hanks có nguồn gốc bình dân. Cặp vợ chồng này sinh sống
trong 18 tháng đầu tại Elizabethtown, thuộc hạt Hardin, Ky., và tại nơi
đây đã ra đời người con gái đầu tiên tên là Sarah. Năm sau, ông Thomas
Lincoln đã mua một nông trại tại South Fork, gần dòng sông Nolin, cách
Elizabethtown 8 cây số về phía nam. Chính tại nông trại nhỏ này, Abraham
Lincoln đã ra chào đời.
Khi Abraham được 2 tuổi, gia đình
Lincoln lại dọn tới Knob Creek, xa hơn 16 cây số và tại nơi này, 2 chị
em Sarah và Abraham đã học tập đọc, tập viết và tập làm toán trong một
căn nhà gỗ dùng làm lớp học. Cũng tại nơi định cư mới này, một người con
thứ ba tên là Thomas đã chào đời nhưng chẳng may chết sớm.
Năm 1816, ông Thomas Lincoln lại quyết
định di chuyển sang Indiana là nơi nông dân có thể mua đất đai trực tiếp
từ chính phủ. Gia đình Lincoln đã chất đồ đạc lên một toa xe, di chuyển
lên mạn bắc, vượt qua dòng sông Ohio để tới hạt Spencer ở phía tây nam
của miền Indiana. Tại nơi này, ông Thomas đã khai phá 65 mẫu rừng thành
nông trại. Mùa đông tới làm cho gia đình Lincoln thêm cơ cực. Ông Thomas
và cậu con trai Abraham đã chặt cây rừng, dựng nên một căn nhà gỗ để
gia đình dọn vô cư ngụ vào tháng 2 năm 1817. Đây là một miền hoang dã,
gấu, chó sói và các loài dã thú khác thường lai vãng quanh vùng. Chính
trong khung cảnh sơn lâm này, Abraham Lincoln dù mới 8 tuổi, đã giúp đỡ
cha trong việc chặt cây, bửa củi. Cuộc sống đơn sơ nơi núi rừng này càng
trở nên dễ chịu thì bất ngờ, bà Nancy Lincoln bị “bệnh sữa” (milk
sickness) và qua đời vào tháng 10-1818. Bệnh này có lẽ gây ra do chất
độc trong sữa bò khi con bò sữa ăn phải loại lá cây nguy hiểm. Ông
Thomas đã chôn vợ bên sườn đồi, gần căn nhà gỗ.
Từ khi bà Nancy chết đi, gia đình
Lincoln không còn hạnh phúc như trước nữa. Chị gái Sarah với tuổi 12, đã
phải đảm đương việc bếp núc trong hơn một năm cho tới khi ông Thomas
quay trở về Kentucky. Trong chuyến viếng thăm này, ông Thomas đã cưới bà
góa phụ Sarah Bush Johnston, một người quen cũ. Bà Johnston đã mang 3
người con riêng 12, 8 và 5 tuổi về sống chung với gia đình Lincoln và
làm cho cuộc sống của tất cả trở nên đầm ấm, hạnh phúc.
2- Thời thanh niên của Abraham Lincoln.
Từ 7 tới 21 tuổi, Abraham Lincoln lớn
lên tại miền biên giới hoang vu, một nơi không được phát triển về giáo
dục. Sách và giấy rất khan hiếm. Nền học vấn chính thức của Abraham vì
thế chỉ kéo dài được một năm. Ngoài các hiểu biết căn bản về tập viết và
làm toán, Abraham chỉ có vài cuốn sách để tập đọc như các truyện
Robinson Crusoe, truyện ngụ ngôn Aesop. Abraham vì muốn đọc sách nên
thường phải đi bộ vài cây số mới mượn được các cuốn truyện.
Năm 1823 khi Abraham lên 14 tuổi, ông bà
Thomas đã tham gia vào nhà thờ Pegeon Creek Baptist. Vào thời gian này,
đã có sự cạnh tranh giữa nhiều hệ phái như Baptist, Methodist,
Presbyterian. Trước các ảnh hưởng tôn giáo, Abraham Lincoln đã không
theo một nhà thờ nào và cũng không đi lễ nhà thờ một cách đều đặn mặc dù
có niềm tin tôn giáo.
Khi chưa đủ 20 tuổi, Abraham Lincoln đã
là một thanh niên cao 6 feet 4 inches (193 cm) với thân hình gầy gò
nhưng rất mạnh mẽ, nhất là về 2 cánh tay. Cậu Abraham có khuôn mặt xấu
trai, nước da đậm, tóc đen và thô nhưng lại có một biệt tài, đó là khả
năng nói năng, thuyết phục. Nhiều người trong vùng đã từng được nghe cậu
Abraham kể chuyện rất hấp dẫn.
Với vóc người cao lớn, khỏe mạnh lại
siêng năng, cậu Abraham rất dễ kiếm được việc làm gần nhà : cậu rất giỏi
về bửa củi, chặt cây làm hàng rào, cày ruộng, đập lúa. Dòng sông Ohio
cách nhà 24 cây số là nơi hấp dẫn trí tìm hiểu của cậu. Abraham thường
chở đò cho khách tới con tầu thủy bỏ neo giữa dòng sông. Năm 1828,
Abraham cùng với bạn chở nông phẩm trên một cái bè, xuôi dòng sông tới
tận New Orleans. Lần viễn du này đã khiến cho Abraham Lincoln ra khỏi
được nơi làng mạc nhỏ bé, nhìn thấy thế giới bên ngoài. Cũng tại New
Orleans, Abraham Lincoln được chứng kiến cảnh chợ mua bán người nô lệ.
Vào thời kỳ đó, chế độ nô lệ được coi là hợp pháp tại các miền đất phía
nam của dòng sông Ohio. Abraham đã thấy từng đoàn người da đen bị xiềng
xích và dẫn tới các đồn điền.
Năm 1830, ông Thomas Lincoln lại quyết
định di chuyển vì công việc khẩn hoang tại Indiana không khả quan, ngoài
ra “bệnh sữa” đã làm cho một số dân định cư sợ hãi. Các người bà con
tại Illinois đã rủ gia đình Lincoln về miền đồng cỏ phía tây vì thế ông
Lincoln cùng với một vài gia đình khác đã dọn nhà và định cư tại 16 cây
số phía tây của Decatur, trên bờ phía bắc của dòng sông Sangamon. Vào
thời gian này, Abraham Lincoln đã 21 tuổi, cậu giúp cha làm nhà, dựng
hàng rào, trồng vụ hoa màu đầu tiên. Cậu cũng làm công cho các người
định cư khác trong vùng.
Mùa xuân năm 1831, một người lái buôn
tên là Denton Offutt đã mướn Abraham Lincoln cùng 2 thanh niên trẻ tuổi
khác chèo một cái bè chở hàng xuống New Orleans. Sau đó nhờ tin cẩn, ông
Offutt đã mướn Abraham làm thư ký riêng trông coi cửa hàng mới tại New
Salem, thuộc Illinois, cách Springfield 32 cây số về phía tây bắc. Cũng
vào thời gian này, ông bà Thomas Lincoln đã dọn nhà qua hạt Coles.
New Salem là một ngôi làng nhỏ gồm nhiều
căn nhà gỗ xây dựng chung quanh một nhà máy xay lúa. Trong làng có vài
cửa hàng, một tiệm làm thùng gỗ, một tiệm chải và dệt len . . . Chính
tại nơi này Abraham Lincoln đã sống trong 6 năm, từ tháng 7-1831 tới mùa
xuân năm 1837 và đã học hỏi được nhiều hiểu biết nhờ ông Jack Kelso đã
dạy cho Abraham về các tác phẩm của đại kịch gia William Shakespeare và
về thơ phú của Robert Burns, một thi sĩ Tô Cách Lan. Abraham Lincoln
cũng tìm học về Thánh Kinh nhờ vậy, sau này khi đã trở thành Tổng Thống,
ông Lincoln đã dẫn chứng các câu Thánh Thư trong các bài diễn văn và
bài viết khác nhau.
Năm 1831, chính quyền Liên Bang đã ra
lệnh dời các nhóm dân da đỏ Sauk và Fox từ Illinois sang Iowa. Mùa xuân
năm 1832, tù trưởng da đỏ Black Hawk đã dẫn hàng trăm quân da đỏ, vượt
sông Mississippi, cố chiếm miền đất gần Rock Island. Trước tình trạng
khẩn trương này, chính phủ Hoa Kỳ phải tuyển mộ dân quân và Abraham
Lincoln đã tình nguyện nhập ngũ. Đại đội của Abraham gồm các thanh niên
từ vùng New Salem. Họ đồng thanh bầu Abraham làm cấp chỉ huy vì các đức
tính thật thà, thân mật và tài kể chuyện. Họ cũng kính phục trước sức
mạnh của Abraham trong các cuộc đấu vật và đọ sức khác. Đây là cơ hội
chứng tỏ Abraham Lincoln có tài về chỉ huy và dẫn đạo.
Sau thời gian đầu quân 30 ngày chấm dứt,
Abraham Lincoln phục vụ quân đội trong 90 ngày nữa với cấp bậc binh nhì
và dù không tham gia trận chiến nào nhưng Abraham đã nhìn thấy các tử
thi của dân chúng bị bọn da đỏ giết chết. Chính nhờ thời gian này mà
Abraham Lincoln hiểu rõ các cực khổ của người lính trên chiến trường để
về sau, khi đã trở thành vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, ông Lincoln đã đối xử
với tất cả binh sĩ bằng tấm lòng thông cảm.
3- Tham gia ngành Lập Pháp và nghề Luật Sư.
Abraham là con người ham học hỏi và
thích tự học. Ông rất quan tâm đến ngành luật pháp và thường mượn các
sách Luật của miền Indiana để đọc trong nhiều đêm trường. Ông cũng đã đi
bộ nhiều dậm đường, tới các tòa án địa phương để nghe các luật sư biện
hộ trong các vụ tranh tụng. Những kinh nghiệm này đã dạy cho Abraham
Lincoln biết các phương thức làm việc của luật sư, hiểu rõ nhiều câu
chuyện tranh tụng và cách giải quyết các vấn đề pháp lý.
Trước thời kỳ quân dịch, nhiều người đã
khuyên Abraham nên ra tranh cử trong ngành lập pháp địa phương vì thế
ông đã ghi danh vào tháng 3-1832 nhưng cuộc chiến tranh Black Hawk đã
khiến ông vắng nhà. Lúc trở về vào tháng 7 năm đó, Abraham Lincoln bị
thất cử dù rằng người dân quanh vùng đã dồn cho ông 277 phiếu trong tổng
số 300 phiếu.
Lúc bấy giờ, một người bạn tên là
William F. Berry rủ Abraham Lincoln mua chung bằng tín khoản một cửa
tiệm tại New Salem. Việc kinh doanh thất bại sau vài tháng khiến cho cả
hai người mắc nợ.
Tháng 5-1833, Abraham Lincoln được đề cử
làm trạm trưởng bưu điện tại New Salem rồi viên trưởng ngành đo đạc địa
phương lại đề nghị Lincoln làm phó ban. Abraham đã cố gắng học hỏi môn
học mới và nhờ 2 công việc, ông đã kiếm đủ sống. Năm 1835, người bạn
Berry qua đời, dồn tất cả các món nợ chung vào khoảng 1,100 mỹ kim cho
Abraham lãnh. Trong nhiều năm, ông Lincoln đã cố gắng thanh toán dần các
nợ cũ và nhờ thế, mọi người đã gọi ông là “Abe lương thiện” (Honest
Abe). Cũng tại New Salem, Abraham đã làm quen được với cô Anne Rutledge
nhưng cô Anne này chẳng may qua đời vào mùa hè năm 1834, để lại nỗi buồn
sâu đậm cho Abraham Lincoln. 18 tháng sau, Abraham lại quen với cô Mary
Owens, người miền Kentucky và đã đề nghị hôn nhân nhưng đã bị cô này cự
tuyệt.
Vào năm 1834, Abraham Lincoln lại ra
tranh cử ngành lập pháp, lần này ông được nhiều người biết tiếng nên đã
thắng cử. Ông đã phục vụ 4 nhiệm kỳ 2 năm liên tiếp tại Hạ Viện Illinois
(the Illinois General Assembly). Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông Lincoln
đã gặp một nhà lập pháp trẻ tuổi thuộc đảng Dân Chủ tên là Stephen A.
Douglas. Ông Lincoln đã sớm trở nên người lãnh đạo nhóm Whig. Ông cũng
đứng đầu các công trình thiết lập ngân hàng Illinois, chương trình xây
dựng các đường xe lửa, các sông đào và các công cuộc vận động dời thủ
phủ của tiểu bang từ Vandalia tới Springfield.
Cũng vào năm 1834, khi ông Lincoln vận
động tranh cử chức vụ lập pháp lần thứ hai, ông John T. Stuart đã đốc
thúc ông Lincoln theo học Luật Khoa. Ông Stuart là một luật sư tại
Springfield và là nhân vật dẫn đầu về lập pháp. Vào thời kỳ đó, chỉ có
vài trường Luật trên toàn Bắc Mỹ. Các sinh viên luật chỉ “đọc Luật” tại
văn phòng một luật sư và được một luật sư thực thụ dạy bảo bằng các lời
khuyên, các chỉ dẫn cần thiết. Để vượt qua sự yếu kém về giáo dục, ông
Abraham Lincoln đã mượn các sách Luật để tự học. Đối với phương pháp học
hành, ông Lincoln đã nói rằng :”ta nên luôn luôn nhớ trong đầu óc rằng
quyết định thành công của chính mình thì quan trọng hơn tất cả các yếu
tố khác”. Vì thế, nhiều khi ông Lincoln đã phải đi bộ 32 cây số từ New
Salem tới Springfield để mượn sách về học. Một luật sư cộng tác với ông
Stuart là ông Henry E. Dummer đã nhớ lại như sau :”Đôi khi ông ta đi bộ,
nhưng thường thì cưỡi ngựa. Ông Lincoln là một thanh niên trông quê mùa
nhất mà tôi đã từng gặp. Ông ta có vẻ ít nói, e thẹn, với vẻ hơi buồn
rầu nhưng khi ông ta nói năng thì tất cả những điều kể trên đã tan biến
đi và ông Lincoln đã chứng tỏ cả về sức mạnh lẫn sự chính xác. Ông
Lincoln làm chúng tôi ngạc nhiên thêm sau mỗi lần thăm viếng”.
Ngày 9-9-1836, ông Abraham Lincoln nhận
được giấy phép hành nghề luật sư nhưng tới ngày 1-3-1837, tên của ông
mới xuất hiện trên danh sách luật sư đoàn. Do dân số của thị trấn New
Salem giảm bớt, ông Lincoln đã dọn văn phòng tới Springfield vào ngày
15-4-1837 và tham gia vào Văn Phòng Luật Sư Stuart & Lincoln. Cuộc
hợp tác này kéo dài tới mùa Xuân năm 1841. Sau đó, ông Lincoln lại cộng
tác với luật sư Stephen T. Logan, là một trong các luật sư tài giỏi nhất
đã từng làm việc tại Illinois. Công việc mở văn phòng chung thứ hai này
chấm dứt vào mùa thu năm 1844. Sau đó, ông Abraham Lincoln đã mời ông
William H. Herndon, một luật sư trẻ hơn 9 tuổi, cộng tác tại một văn
phòng do ông Lincoln đứng đầu. Hai nhân vật này đã không giải tán văn
phòng ngay cả 16 năm sau khi ông Lincoln rời Springfield để tới
Washington D.C. nhậm chức vụ Tổng Thống. Vào thời kỳ của ông Lincoln,
các luật sư chưa được phân chia thành các ngành chuyên môn nên ông
Lincoln đã cãi tại các tòa án địa phương của hạt Sangamon, tại Tòa Liên
Bang của Illinois và Tòa Tối Cao của tiểu bang. Ông cũng biện hộ cho các
thân chủ tại các tòa án hòa giải và chỉ tính lệ phí nhẹ.
Năm 1837, các ông Abraham Lincoln và Dan
Stone, một nhà lập pháp khác, đã vận động và phản đối chế độ nô lệ. Cả
hai ông đã tuyên bố rằng “căn bản của chế độ nô lệ được đặt trên sự bất
công và chính sách xấu xa” (the institution of slavery is founded on
both injustice and bad policy). Vấn đề nô lệ này 23 năm về sau đã trở
thành một đề tài gây sóng gió khi ông Abraham Lincoln đắc cử chức vụ
Tổng Thống.
Một thời gian ngắn sau khi dọn tới
Springfield, ông Abraham Lincoln đã gặp cô Mary Todd (1818-82), một cô
gái Kentucky sống với người chị đã có gia đình. Hai người quen nhau và
đã có lần hủy bỏ ước hẹn hôn nhân nhưng cuối cùng, họ đã làm đám cưới
vào ngày 4-11-1842, khi đó ông Lincoln 32 tuổi còn cô Todd 23.
Bà Mary Todd Lincoln là một người tính
khí bất thường lại nhiều tham vọng. Bản tính tương khắc của 2 vợ chồng
này đã gây nên nhiều vụ va chạm. 18 tháng sau ngày cưới, ông Lincoln đã
mua một căn nhà gỗ và dọn gia đình tới đây cho tới khi trở nên Tổng
Thống. Họ đã có 4 người con : Robert Todd, Edward Baker sinh năm 1846
nhưng đã chết 4 năm sau, William Wallace sinh năm 1850 nhưng rồi qua đời
tại Tòa Bạch Cung năm 11 tuổi và Thomas, thường được gọi là Tad, chết
năm 1871 ở tuổi 18 vì bị bệnh.
4- Chính khách quốc gia.
Sau 4 nhiệm kỳ lập pháp tại miền
Illinois, ông Abraham Lincoln ước muốn được bầu vào Quốc Hội. Năm 1840,
ông Lincoln đi tới nhiều tiểu bang để vận động tranh cử Tổng Thống cho
ông William Henry Harrison. Ông đã dùng đề tài “Hệ Thống Ngân Hàng” và
ủng hộ giải pháp Ngân Hàng Hoa Kỳ (the Bank of the U.S.). Các vận động
tranh cử của ông vào Hạ Viện vào các năm 1843 và 1844 đã không giúp ông
thành công.
Năm 1844, ông Abraham Lincoln lại ủng hộ
ông Henry Clay, một ứng viên Tổng Thống thuộc đảng Wig. Trong kỳ vận
động này, ông Lincoln đã chọn đề tài thuế vụ (tariff) theo đó một loại
thuế cần được áp đặt vào các hàng hóa nhập cảng để giúp đỡ kỹ nghệ Hoa
Kỳ phát triển. Hai năm sau, ông Lincoln đã thắng cử vào Viện Dân Biểu.
Đối thủ của ông là ông Peter Cartwright, một nhân vật Methodist rất danh
tiếng.
Ông Abraham Lincoln vào ngồi trong Quốc
Hội từ ngày 6-12-1847, lúc mà Hoa Kỳ đã thắng cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ
nhưng hiệp ước hòa bình giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ chưa được ký kết. Vào
thời gian này, ông Lincoln đã cùng các bạn Whig đồng viện trách cứ Tổng
Thống James K. Polk về chiến tranh và ông đã bỏ phiếu cần phải cung cấp
cho quân đội Hoa Kỳ đầy đủ phương tiện. Ông Lincoln cũng ủng hộ chương
trình Wilmot Proviso theo đó chế độ nô lệ phải bị tiêu hủy tại các miền
đất mà Hoa Kỳ chiếm được của Mễ Tây Cơ. Ông cũng vận động tranh cử chức
vụ Tổng Thống năm 1848 cho ông Zachary Taylor.
Tới ngày 4-3-1849, nhiệm kỳ dân biểu của
ông Lincoln chấm dứt. Ong Lincoln đã không thành công trong việc vận
động để đạt chức vụ Bộ Trưởng Đất Dai (Commissioner of the General Land
Office) trong khi lại từ chối chức vụ Thống Đốc tiểu bang Oregon. Ông
Abraham Lincoln trở về Springfield, Illinois, với nghề luật sư. Vào thời
kỳ này, các công ty lớn đang phát triển tại miền Illinois và các tiểu
bang lân cận. Ông Lincoln đã tranh cãi trong nhiều vụ kiện nhờ đó lợi
tức của ông rất khả quan. Thù lao cao nhất của ông là 5,000 mỹ kim khi
ông biện hộ cho Công Ty Đường Sắt Trung Ương Illinois (the Illinois
Central Railroad) trong một vụ kiện liên quan tới thuế vụ. Sau vụ này,
nhờ danh tiếng vang lừng, ông Abraham Lincoln trở nên một trong các luật
sư hàng đầu của miền Illinois.
Vào năm 1820 về trước, đạo luật hòa giải
Missouri (the Missouri Compromise) đã cấm chỉ chế độ nô lệ tại các miền
đất mới phía bắc của con đường đông tây, là đường kéo dài của biên giới
phía nam của tiểu bang Missouri. Nhưng rồi tới đầu năm 1854, Thượng
Nghị Sĩ Stephen A. Douglas của tiểu bang Illinois lại đề ra một đạo luật
tổ chức các miền đất Kansas và Nebraska. Đạo luật Kansas-Nebraska này
đã xét lại đạo luật hòa giải Missouri và cho phép các người định cư tại
các tiểu bang mới được quyền quyết định duy trì hay không duy trì chế độ
nô lệ. Ông Abraham Lincoln và một số người khác đã tin tưởng rằng chế
độ nô lệ đã bị giới hạn để rồi suy tàn trong tương lai. Chính sách mới
kể trên như thế có thể làm sống lại chế độ tàn nhẫn đó và điều này đã
khiến ông Abraham Lincoln bất bình.
Ông Abraham Lincoln đã tin tưởng vào các
vị lập quốc khi viết ra “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” theo đó Tự Do và Bình
Đẳng đã được hứa hẹn. Có lần ông Lincoln đã nói :”Tôi không có một tư
tưởng chính trị nào không bắt nguồn từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” và ông
hướng về ông Thomas Jefferson vì các nguyên tắc chính trị dân chủ và về
ông Alexander Hamilton do các nguyên tắc kinh tế. Ông Lincoln cũng tin
rằng Hiến Pháp Hoa Kỳ đã bảo vệ việc chống lại chế độ nô lệ vì chế độ
này là điều xấu xa, đang dần dần bị hủy diệt. Cũng vì thế, ông Lincoln
đã quyết định vận động triệt tiêu Đạo Luật Kansas-Nebraska.
Từ năm 1854, ông Abraham Lincoln đã diễn
thuyết hùng hồn tại Springfield, Peoria và Chicago, và là nhà lãnh đạo
phong trào chống đối đạo luật kể trên. Ông được bầu vào Viện Lập Pháp
Illinois nhưng sau đó từ chức để tranh cử chức vụ Thượng Nghị Sĩ. Trong
cuộc bầu cử lần đầu, ông Lincoln bị thiếu 5 phiếu và để không cho ông
Douglas đắc cử, ông đã quay sang ủng hộ ông Lyman Trumbull và ông
Trumbull này đã thắng lợi.
Trong thập niên 1850, đảng Whig bị phân
hóa vì các đảng viên tại các miền đất khác nhau đã bất đồng ý kiến về
chế độ nô lệ. Năm 1856, ông Lincoln tham gia đảng Cộng Hòa chủ trương
chống nô lệ, lúc đó đảng này mới được 2 tuổi. Ông Lincoln đã vận động
giúp ông John C. Fremont, một đảng viên Cộng Hòa, bằng hơn một trăm bài
diễn thuyết giá trị nhưng rồi ông này đã bị thua trước ông James
Buchanan, thuộc đảng Dân Chủ.
Năm 1858, ông Lincoln được đề cử ra
tranh chức Thượng Nghị Sĩ với ứng viên Douglas. Trong bài diễn văn nhận
lãnh trách nhiệm, ông Lincoln đã nói “một căn nhà bị chia rẽ không thể
đứng vững được. Tôi tin rằng chính phủ này không thể tồn tại mãi với một
nửa nô lệ, một nửa tự do. Tôi không mong đợi Liên Bang bị giải thể. Tôi
không mong đợi căn nhà sụp đổ, tôi chỉ mong đợi không còn bị chia rẽ
nữa”. Cũng nhân dịp này, ông Lincoln đã thách đố ông Douglas tranh luận
và ông Douglas đã nhận lời, nêu ra 7 nơi tụ họp. Nơi đầu tiên vào ngày
21-8-1858 tại Ottawa, Illinois, và nơi sau cùng tại Alton, Illinois, vào
ngày 25-10. Mỗi ứng viên nói trong một giờ rưỡi. Thính giả rất đông.
Các tranh luận tập trung vào việc nới rộng chế độ nô lệ tại các tiểu
bang mới. Ông Douglas đã bênh vực đạo luật Kansas-Nebraska và cho rằng
người dân của bất cứ miền đất nào có thể chối bỏ chế độ nô lệ bằng cách
không chấp nhận các đạo luật địa phương bênh vực chế độ đó. Luận điệu
này được gọi là Chủ Thuyết Freeport (the Freeport Doctrine). Trong khi
đó, ông Abraham Lincoln lại nhấn mạnh rằng chế độ nô lệ là một điều xấu
xa về luân lý, xã hội và chính trị (a moral, social and political evil).
Trong các cuộc tranh luận, ông Lincoln
đã vượt trội hơn ông Douglas nhưng vì tiểu bang được chia thành các khu
vực nên các đại biểu của ông Stephen Douglas đã đoạt được đa số phiếu và
ông Douglas đã thắng cử. Dù sao, cuộc tranh luận đã khiến cho ông
Lincoln trở nên một nhân vật có danh tiếng, thuộc tầm vóc quốc gia.
Vào ngày 16-5-1860 đã diễn ra Đại Hội
Toàn Quốc Đảng Cộng Hòa họp tại Chicago. Các nhân vật ứng cử gồm Thượng
Nghị Sĩ William H. Seward của thành phố New York, ông này được sự ủng hộ
mạnh nhất nhưng cũng có nhiều kẻ thù, Thượng Nghị Sĩ Salmon P. Chase
thuộc tiểu bang Ohio, nhân vật chưa từng giữ một chức vụ quốc gia cao
cấp nào. Quá trình bình dân của ông Lincoln đã được dùng để vận động các
cử tri. Sau 3 lần bỏ phiếu, ông Abraham Lincoln đã thắng và được đề cử
làm ứng viên Tổng Thống. Ứng viên Phó Tổng Thống là Thượng Nghị Sĩ
Hannibal Hamlin, thuộc tiểu bang Maine.
Về phía đảng Dân Chủ, đã có sự chia rẽ.
Các đảng viên miền Bắc đề cử Thượng Nghị Sĩ Stephen Douglas làm ứng viên
Tổng Thống còn miền Nam chọn lựa ông John C. Breckinridge. Ngoài ra còn
có một đảng thứ tư gọi là Đảng Hiến Pháp Liên Bang (the Constitutional
Union Party), họ đã đề cử cựu Thượng Nghị Sĩ John Bell của tiểu bang
Tennessee. Sau khi kiểm phiếu, ông Lincoln được 1,865,593 phiếu; ông
Douglas được 1,382,713 phiếu còn ông Breckinridge được 848,356 phiếu.
Như vậy ông Abraham Lincoln là đảng viên Cộng Hòa đầu tiên đắc cử chức
vụ Tổng Thống Hoa Kỳ và là vị Tổng Thống thứ 16.
5- Vị Tổng Thống kiên nhẫn và cương quyết.
Khi nghe tin ông Abraham Lincoln thắng
cử chức vụ Tổng Thống, các tiểu bang Miền Nam của Hoa Kỳ đã báo động. Họ
nghĩ rằng một Tổng Thống Cộng Hòa sẽ không tôn trọng các tài sản và
quyền lợi của họ, như vậy đối với họ, chỉ còn một cách cứu vãn là ly
khai khỏi Liên Bang Hoa Kỳ.
Ngày 20 tháng 12 năm 1860, tiểu bang
South Carolina thông qua đạo luật ly khai (an Ordinance of Secession) và
vào lúc ông Abraham Lincoln tuyên thệ nhậm chức, 6 tiểu bang Miền Nam
tuyên bố ly khai khỏi Liên Bang Thống Nhất (the Union) rồi sau đó còn có
4 tiểu bang nữa tham gia. Các tiểu bang ly khai đã tạo nên các Tiểu
Bang Liên Minh Hoa Kỳ (the Confederate States of America).
Ngày 11-2-1861, khi từ biệt các người
quen biết tại Springfield, Illinois, để lên đường đi nhậm chức, ông
Abraham Lincoln đã nói “Tôi đã sống ở đây một phần tư thế kỷ và đã trải
qua thời kỳ từ trẻ tới già. Các con của tôi đã sinh ra tại nơi này và có
đứa đã chôn tại nơi này. Bây giờ tôi phải ra đi, không biết bao giờ mới
có thể trở lại, ra đi với một nhiệm vụ trước mặt còn lớn lao hơn thứ
của ông Washington”. Rồi hành trình của chuyến xe lửa chở ông Lincoln
tới Washington D.C. đã được trù liệu cẩn thận để ngừng lại tại các thành
phố lớn miền Đông, làm sao cho hàng ngàn dân chúng có cơ hội nhìn thấy
mặt vị Tổng Thống tương lai của họ. Tại thành phố Philadelphia, ông
Lincoln nghe tin có một âm mưu ám sát, vì vậy chuyến đi đã được thay đổi
tại Harrisburg, Pa., và ông Abraham Lincoln đã tới Thủ Đô vào sáng sớm
ngày 23-2.
Ngày 4-3-1861, ông Abraham Lincoln đã
tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 16. Trong bài diễn văn khai
mạc, ông Lincoln đã nói : “Tôi không có chủ đích nào can thiệp vào bản
chất của vấn đề nô lệ của các tiểu bang mà thứ đó đang tồn tại. Hỡi các
đồng bào bất mãn của tôi, trong tay các bạn và không phải là trong tay
tôi, là vấn đề trầm trọng vì nội chiến. Chúng ta không phải là kẻ thù.”.
Ông Abraham Lincoln đã xác định không có ý muốn can thiệp vào các tiểu
bang khác, bởi vì vấn đề “nô lệ” hay “tự do” đã được Hiến Pháp quy định
và bảo vệ. Ông chỉ muốn sự thống nhất Liên Bang.
Non 6 tuần lễ sau ngày nhậm chức hay vào
ngày 12-4-1861, khi mà cuộc nội chiến đã bắt đầu và khi ông phải đảm
nhiệm trọng trách đưa các tiểu bang ly khai trở về với đại gia đình quốc
gia và duy trì sự thống nhất, ông Abraham Lincoln đã viết : “Mục tiêu
chính của tôi trong cuộc tranh đấu này là duy trì Liên Bang, không phải
là duy trì hay tiêu hủy chế độ nô lệ. Nếu tôi có thể duy trì Liên Bang
mà không giải phóng một người nô lệ nào, tôi sẽ làm điều đó, và nếu tôi
có thể duy trì Liên Bang mà lại giải phóng tất cả các nô lệ, tôi cũng sẽ
làm điều đó”, và ông Lincoln đã xác nhận điều ước muốn của ông là “mọi
người ở mọi nơi phải được Tự Do”. Ông Lincoln đã cảnh cáo rằng ông sẽ
dùng tất cả sức mạnh của quốc gia để chiếm giữ các “tài sản và địa điểm”
thuộc về chính quyền Liên Bang. Danh từ này ám chỉ các pháo đài, công
xưởng, tòa nhà quan thuế.
Một ngày sau lễ tuyên thệ nhậm chức,
Tổng Thống Abraham Lincoln đã công bố danh sách các nhân vật nội các,
gồm cả hai đối thủ chính trị của ông trong cuộc tranh cử Tổng Thống là
ông William H. Seward, Bộ Trưởng Ngoại Giao và ông Salmon P. Chase, Bộ
Trưởng Ngân Khố. Như vậy Nội Các của đảng Cộng Hòa đã gồm nhiều sắc thái
chính trị khác nhau, đây là một nhóm nhân vật có các khả năng đặc biệt
để phục vụ quốc gia và ông Lincoln đã khéo léo duy trì Nội Các một cách
lịch duyệt. Ông cần tới sự giúp đỡ của họ, không phải các lời khen ngợi
của họ.
Nhờ các kinh nghiệm của một luật sư,
Tổng Thống Lincoln đã cứu xét mọi vấn đề theo mọi khía cạnh trước khi đi
tới một quyết định. Ông đã nói với một người bạn : “đầu óc tôi làm việc
chậm chạp nhưng khi nó đã tiến hành, nó đi về phía trước”, và khi ông
đã quyết định xong một điều quan trọng nào, không ai có thể khiến ông
đổi ý.
Ngay khi các tiểu bang Miền Nam ly khai,
họ đã chiếm giữ các đồn lũy nằm trong biên giới của họ khiến cho ông
Lincoln phải quyết định hoặc là củng cố các đồn lũy còn lại hay giành
chiếm các địa điểm đã lọt vào vòng kiểm soát của phe Miền Nam. Tại hải
cảng Charleston, đồn Sumter (Fort Sumter) là một biểu tượng của Liên
Bang Thống Nhất (the Union). Người chỉ huy đồn này là thiếu tá Robert
Anderson. Nếu Tổng Thống Abraham Lincoln ra lệnh rút quân đội ra khỏi
đồn này, sẽ có một làn sóng phản đối tại Miền Bắc, còn nếu ông tăng
cường đồn lũy đó, phe Miền Nam sẽ coi đây là một hành động chiến tranh.
Để dung hòa cả hai, ông Lincoln đã quyết định chỉ gửi lương thực tới đồn
Sumter là thứ mà nơi đây đang cần. Tổng Thống Lincoln đã thông báo việc
làm này cho tiểu bang South Carolina biết, nhưng phe Miền Nam vẫn coi
đó là một hành động thù nghịch và ra lệnh cho thiếu tá Anderson phải đầu
hàng. Viên thiếu tá này từ chối nên vào ngày 12-4, Tướng Pierre G.T.
Beauregard đã ra lệnh cho pháo binh Liên Minh oanh tạc đồn Sumter. Ngày
hôm sau, Anderson phải quy hàng và từ nay bắt đầu cuộc Nội Chiến Nam Bắc
Mỹ.
Trước cuộc khủng hoảng này, Tổng Thống
Abraham Lincoln đã hành động một cách cương quyết. Ông tuyên bố sẽ phong
tỏa các hải cảng miền Nam, bành trướng quân đội ra khỏi giới hạn quy
định bởi Luật Pháp, dùng các ngân khoản của Liên Bang mà không chờ đợi
sự chấp thuận của Quốc Hội, và các người miền Bắc nhưng có cảm tình với
phe Miền Nam bị tước đi “quyền bảo thân” (habeas corpus). Ông Lincoln
tin tưởng rằng các hành động này nằm trong quyền hạn mà Hiến Pháp đã
dành cho Tổng Thống lúc chiến tranh, và ông đã chứng tỏ các hành động đó
là đúng khi Quốc Hội họp lần đầu tiên vào tháng 7 năm 1861. Bản văn gửi
Quốc Hội của ông Lincoln được coi là một trong các văn thư quan trọng
nhất. Khi vị Chánh Án Tòa Tối Cao Roger B. Taney phản đối ông Lincoln về
vấn đề tước đoạt “quyền bảo thân”, Tổng Thống Lincoln đã đặt câu hỏi mà
cho tới ngày nay, việc trả lời hợp lý vẫn còn là một vấn đề khó khăn :
“Nếu chỉ có một luật lệ trong tất cả các luật lệ khác không được thi
hành và chính quyền bị phân hóa ra từng mảnh, thì có nên tránh vi phạm
luật lệ đó không ?”.
Tổng Thống Abraham Lincoln cho rằng sẽ
là một thảm cảnh nếu quốc gia Hoa Kỳ bị tan vỡ, khi đó không phải chỉ có
người Mỹ là bị tổn hại mà về sau này, mọi người đều bị thiệt thòi bởi
vì đối với ông Lincoln, Hoa Kỳ tượng trưng cho một kinh nghiệm theo đó
người dân có thể quản trị lấy chính mình. Nếu loại chính quyền này thất
bại thì các vua chúa, các kẻ độc tài và những người ủng hộ họ sẽ nói
rằng người dân không thể tự quản trị được và cần phải có một loại người
nào đó đứng ra điều khiển dân chúng. Và ông Abraham Lincoln đã coi trung
tâm của vấn đề Nội Chiến là Số Phận của nền Dân Chủ trên Thế Giới.
6- Điều hành chiến tranh.
6- Điều hành chiến tranh.
Hai ngày sau khi đồn Sumter thất thủ,
Tổng Thống Lincoln đã gọi nhập ngũ 75,000 người. Các người tình nguyện
vào Quân Đội đã đông hơn số quân sĩ mà chính quyền có thể trang bị.
Tháng 7-1861, một đạo quân được tập họp quanh thủ đô Washington. Một lực
lượng quân sự tương đương của phe Miền Nam cũng được huy động tại phía
bên kia dòng sông Potomac, thuộc tiểu bang Virginia.
Vào thời kỳ đó, nhiều người Miền Bắc tin
rằng các lực lượng quân sự của họ có thể đánh bại phe Miền Nam trong
một trận chiến. Các báo chí hô hào “tiến tới Richmond”. Tổng Thống
Lincoln bèn ra lệnh xung trận. Đạo quân Miền Bắc ở dưới quyền Tướng
Irvin McDowel. Trận đánh Bull Run đầu tiên diễn ra vào ngày 21-7 với phe
Miền Bắc bị thất bại. Tới lúc này các người Miền Bắc mới nhận thức được
rằng đây là một cuộc chiến lâu dài.
Vì là vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng
Thống Lincoln phải chọn lựa vị tướng lãnh nào có khả năng tổ chức các
người tình nguyện thành những đạo quân mang về chiến thắng. Tướng George
B. McClellan là một nhà tổ chức quân đội tài giỏi nhưng chiến dịch
Peninsular năm 1862 của ông đã gặp thất bại. Đây là kế hoạch đánh chiếm
Richmond, Va., thủ đô của phe Miền Nam. Tống Thống Lincoln sau đó đã chỉ
định Tướng John Pope làm chỉ huy trưởng các đạo quân nhưng Tướng Pope
cũng bị thua trong trận đánh Bull Run thứ hai, diễn ra vào ngày 29 tới
30 tháng 8 năm 1862, khiến cho Tổng Thống Lincoln phải gọi tới Tướng
McClellan bảo vệ thủ đô Washington. Khi Tướng McClellan không chịu tiến
quân vào đầu tháng 11, Tổng Thống Lincoln đành phải cất chức Tướng
McClellan và đặt Tướng Ambrose E. Burnside vào chức vụ chỉ huy. Nhưng
vào ngày 13-12, Tướng Burnside cũng thua trận Fredericksburg và người kế
tiếp là Tướng Joseph Hooker cũng thất bại vào ngày 1 tới ngày 4 tháng 5
năm 1863 trong trận đánh Chancellorsville.
Trong phần lớn thời kỳ Nội Chiến này,
các báo chí và dân chúng đã chỉ trích các chính sách của Tổng Thống
Lincoln một cách cay đắng, nhưng ông Lincoln đã không biện hộ vì tin
rằng ông đang thi hành các công việc có lợi cho Liên Bang. Tại Tòa Bạch
Cung, mỗi ngày các thư ký mang tới Tổng Thống Lincoln các bản tin chiến
trường, và một cách cô đơn, Tổng Thống phải nghĩ ra các giải pháp. Ông
Lincoln đã ngồi vào bàn giấy trước 7 giờ mỗi sáng, cố gắng tìm cách
chiến thắng và duy trì sự thống nhất Liên Bang. Các giấy tờ tràn ngập
văn phòng của ông. Nỗi khổ tâm nhất của ông Lincoln là phải đọc hay nghe
các đơn xin ân xá của các binh lính bị kết tội “tử hình” vì đào ngũ hay
vì không làm tròn nhiệm vụ, và mỗi khi tìm ra được một lý lẽ nào, ông
Lincoln đều tha tội cho các người lính. Có một lần, ông Abraham Lincoln
đã nói một cách buồn rầu : “Trong 4 năm, tôi gặp nhiều vụ phải giải
quyết liên quan tới sống và chết hơn tổng số các vụ mà các vị khác ngồi
vào chiếc ghế này gặp phải. Không ai hiểu nổi nỗi phiền muộn của tâm hồn
tôi”. Quả vậy, không ai cảm thấy được thảm cảnh của chiến tranh hơn ông
Abraham Lincoln. Đã có lần ông nói với nhà văn Harriet Beecher Stowe
một cách mệt mỏi rằng “không rõ cuộc xung đột này sẽ chấm dứt theo cách
nào, nhưng tôi có cảm tưởng rằng tôi sẽ không tồn tại được lâu sau cuộc
kết thúc”.
Trong hoàn cảnh mệt nhọc vì suy tính của
ông Lincoln, cậu Tad đã luôn luôn ở gần bên cha và là niềm vui cho ông.
Cậu trai nhỏ nhất này thường xuyên thức khuya trong văn phòng làm việc
của cha cho tới khi ngủ gục. Ông bà Lincoln lúc này có 3 con trai là
William Wallace hay “Willie”, Thomas hay “Tad” nhưng Willie đã chết vào
ngày 20-2-1862 khiến cho ông bà Lincoln buồn rầu vô hạn, còn cậu con
trai lớn Robert Lincoln là một sinh viên Đại Học Harvard, sau đó phục vụ
trong ban tham mưu của Tướng Grant với cấp bậc đại úy.
Sống tại Tòa Bạch Cung, bà Mary Todd
Lincoln cũng gặp nhiều bất mãn. Bản tính của bà hay ghen tị và nóng nẩy
khiến cho bà Mary mất đi các bạn thân. Người em trai trẻ nhất của bà, 2
người anh em khác dòng và chồng của các em gái khác cha/mẹ đều phục vụ
trong quân đội của phe Miền Nam, vì vậy bà Mary Lincoln thường bị nghi
ngờ về lòng trung thành. Còn đối với ông Abraham Lincoln, chức vụ Tổng
Thống là tham vọng cao nhất của mọi công dân Mỹ nhưng cuộc Nội Chiến đã
làm cho đời sống trong Tòa Bạch Cung của ông thiếu hạnh phúc. Ông thường
xuyên viếng thăm các bệnh viện quân đội và điều này đã khiến ông rất
đau lòng.
Ngoài nhiệm vụ điều hành Nội Các, điều
khiển Lục Quân, Hải Quân và quản trị đất nước, Tổng Thống Abraham
Lincoln còn phải lo việc bổ nhiệm hàng ngàn chức vụ chính trị và quân
sự, chuẩn bị các bài diễn văn, tự viết các bức thư, tìm đọc các sách báo
về khoa học quân sự và tìm kiếm các vị tướng lãnh có tài, có thể mang
lại chiến thắng.
Sau một thời gian dài thất bại, lực
lượng quân sự Miền Bắc mới đạt được một số chiến thắng nhỏ tại thung
lũng dòng sông Mississippi. Ngày 6-2-1862, Tướng Ulysse S. Grant chiếm
được đồn Henry rồi đồn Donelson vào ngày 16-2. Tới tháng 4, đội quân
Miền Nam đã phải rút lui sau trận Shiloh nhưng quân Miền Bắc cũng bị
thiệt hại nặng nề.
Tổng Thống Lincoln còn phải lo mặt đối
ngoại. Từ năm 1861, Bộ Trưởng Ngoại Giao William Seward đã đề nghị gây
chiến với vài quốc gia của châu Âu để đoàn kết trong nước nhưng Tổng
Thống Lincoln đã làm ngơ trước ý kiến này. Tới tháng 11-1861, Đại Tá
Charles Wilkes của Hải Quân Miền Bắc đã ngăn chặn chiếc tầu chiến Trent
của nước Anh và bắt 2 vị bộ trưởng Miền Nam là James M. Mason và John
Slidell. Nước Anh đã phản đối dữ dội sự việc này và muốn gây chiến. Để
tránh chiến tranh tai hại, Tổng Thống Lincoln đã ra lệnh thả 2 ông Mason
và Slidell.
Vào thời kỳ đầu của cuộc Nội Chiến, đã
có một số người cực đoan tại Miền Bắc chống đối chế độ nô lệ. Nếu những
người này thắng thế thì Miền Bắc sẽ mất đi sức ủng hộ của các tiểu bang
biên giới như Kentucky, Missouri, Delaware và Maryland, và việc đánh bại
phe Miền Nam không thể nào thực hiện được nếu không có sự yểm trợ của
các tiểu bang này. Vì thế Tổng Thống Lincoln phải duy trì sự ôn hòa, cố
gắng làm sao có được sự ủng hộ của đa số dân chúng, bảo vệ sự thống nhất
của Liên Bang hơn là sớm giải phóng nô lệ. Tổng Thống Lincoln đã tuyên
bố : “Mục tiêu chính của tôi là duy trì Liên Bang và không phải duy trì
hay hủy bỏ chế độ nô lệ”. Nhưng tới cuối mùa hè năm 1862, Tổng Thống
Lincoln nhận thấy đã tới thời cơ phải thay đổi chiến lược. Nhiều quốc
gia bên ngoài có cảm tình với phe Miền Nam nhưng lại lên án chế độ nô lệ
là xấu xa và như vậy, họ không thể ủng hộ phe ly khai trong khi đó
nhiều người Miền Bắc trước kia dửng dưng với chế độ nô lệ thì nay lại
tin rằng cần phải chấm dứt sự bất công đó. Ngoài ra, các người nô lệ
được giải phóng có thể tham gia vào quân đội Miền Bắc. Tổng Thống
Lincoln đã bàn ý kiến này với vài nhân vật nội các và theo lời khuyên
của ông Seward, ông chưa công bố Bản Tuyên Bố Giải Phóng Nô Lệ cho tới
khi quân đội Miền Bắc tạo được chiến thắng thích hợp.
Ngày 17-9-1862 diễn ra trận đánh
Antietam. Đây là chiến thắng đầu tiên của phe Miền Bắc. Ngày 22-9, Tổng
Thống Lincoln ban ra một bản tuyên bố mà ông gọi là “hành động chính của
chính quyền của tôi và cũng là biến cố lớn nhất trong thế kỷ 19”. Bản
Tuyên Bố Giải Phóng sơ khởi hứa hẹn Tự Do dành cho các nô lệ bị giữ
trong các tiểu bang Miền Nam nào không trở về với Liên Bang vào cuối năm
đó. Bản Tuyên Bố này đã ảnh hưởng tới 3 triệu người nô lệ. Các tiểu
bang Miền Nam và các chủ nhân sở hữu nô lệ đã không quan tâm tới Bản
Tuyên Bố sơ khởi nên vào ngày 01-01-1863, Tổng Thống Lincoln lại công bố
Bản Tuyên Bố Giải Phóng cuối cùng. Văn bản này không ảnh hưởng tới các
tiểu bang biên giới là các nơi không nổi loạn chống Liên Bang. Từ khi
đó, mỗi khi quân đội Miền Bắc chiếm được một miền đất nào, các nô lệ tại
miền đất mới đó được giải thoát ngay và nhiều người trong bọn họ đã gia
nhập vào quân đội Liên Bang.
Bản Tuyên Bố Giải Phóng (the
Emancipation Proclamation) của ông Abraham Lincoln đã tạo nên một ảnh
hưởng dài hạn. Đối với các quốc gia bên ngoài, bản văn này đã cung cấp
cho cuộc chiến tranh một lý tưởng mới và đã giúp công vào tinh thần
chiến đấu của phe Miền Bắc. Bản Tuyên Bố cũng tạo nên một hướng đi cho
Tu Chính Án thứ 13 của Hiến Pháp, được phê chuẩn vào ngày 18-12-1865
theo đó chế độ nô lệ bị chấm dứt theo Luật Pháp trên toàn lãnh thổ Hoa
Kỳ.
7- Chiến thắng và thắng cử lần thứ hai.
Sau thắng lợi tại Chancellorsville vào
tháng 5 năm 1863, Tướng Robert E. Lee nhận thấy phe Miền Bắc dần dần có
lợi thế hơn nên ông đã quyết định đưa quân đánh sang tiểu bang
Pennsylvania, gây ảnh hưởng tâm lý tới nhân dân Miền Bắc. Ngày
01-7-1863, đạo quân của tướng Lee đụng trận với quân đội Miền Bắc dưới
quyền Tướng George G. Meade gần một thị trấn nhỏ tên là Gettysburg.
Trong 3 ngày, trận tuyến giằng co tại các dải đất hẹp thuộc miền nam
Pennsylvania rồi cao điểm giao tranh xẩy ra vào ngày mồng 3 khi 15,000
quân Miền Nam do Tướng George Pickett tấn công dữ dội vào các vị trí của
quân đội Miền Bắc nhưng đã gặp thất bại. Sáng sớm ngày 5-7, Tướng Lee
đành phải ra lệnh rút lui, không còn hy vọng đánh Miền Bắc nữa. Đạo quân
của Tướng Lee tại phía bắc Virginia khi đó lên tới 75,000 người, gồm cả
sĩ quan và binh lính trong khi Tướng Meade có 88,000 quân thuộc đạo
quân Potomac. Phe Miền Nam thiệt hại tại Gettysburg vào khoảng 28,000
người trong khi tổn thất của phe Miền Bắc là 23,000, gồm cả các người
chết, bị thương và mất tích.
Ngày 19-11-1863 tại nghĩa trang
Gettysburg trên ngọn đồi Cemetery thuộc tiểu bang Pennsylvania, đã diễn
ra lễ truy điệu các tử sĩ. Diễn giả chính của buổi lễ là ông Edward
Everett, một trong các nhà hùng biện danh tiếng nhất thời đó. Ông
Everett đã nói liền trong 2 giờ, sau đó Tổng Thống Lincoln được mời nói
vài lời. Ông Abraham Lincoln đứng lên, từ từ rút cặp kính ra và một mẫu
giấy nhỏ rồi nói bằng một giọng rõ ràng. Trong 3 phút ngắn ngủi, Tổng
Thống Lincoln đã hoàn tất Bài Diễn Văn Gettysburg lừng danh với câu mở
đầu : “Cách đây 87 năm, ông cha của chúng ta đã thành lập trên lục địa
này một quốc gia mới, thành hình trong Tự Do và với chủ đích rằng mọi
người được sinh ra bình đẳng”. Và lời kết luận của Tổng Thống Abraham
Lincoln đã trở thành một câu danh ngôn quen thuộc với tất cả mọi người:
“Chính quyền của Dân, do Dân, vì Dân sẽ không bao giờ suy tàn trên mặt
đất”.
Nhiều nhà khảo cứu nói rằng Tổng Thống
Lincoln đã phác thảo bài diễn văn bất hủ kể trên, trên chuyến xe lửa đi
tới Gettysburg. Thực ra ông Lincoln đã suy nghĩ rất nhiều về buổi lễ,
rồi do chuẩn bị cẩn thận, lại đúc kết trong một khung cảnh bi thương,
Bài Diễn Văn Gettysburg đã trở nên một văn bản lừng danh của Lịch Sử và
Văn Chương Hoa Kỳ.
Trong khi Tướng Lee thua trận tại phía
bắc thì tại phía tây vào ngày 4-7-1863, đạo quân của Tướng Grant đã
chiếm được địa điểm Vicksburg khiến cho toàn thể khu vực dòng sông
Mississippi, các tiểu bang Arkansas, Texas và Louisiana bị cắt ra khỏi
quyền kiểm soát của phe Miền Nam. Hai chiến thắng Gettysburg và
Vicksburg đã hứa hẹn việc kết thúc chiến tranh.
Vào năm 1864, các đảng viên Cộng Hòa và
đảng viên Dân Chủ ủng hộ chính sách quân sự của Tổng Thống Lincoln (War
Democrats) đã lập ra đảng Thống Nhất Quốc Gia (the National Union
Party). Tháng 6 năm đó, đảng này đề cử ông Abraham Lincoln ra tranh chức
vụ Tổng Thống với ứng viên Phó Tổng Thống là Thượng Nghị Sĩ Andrew
Johnson của tiểu bang Tennessee. Các đảng viên Dân Chủ chọn Tướng George
B. McClellan làm ứng viên Tổng Thống và Dân Biểu Geoge H. Pendleton của
tiểu bang Ohio làm ứng viên Phó Tổng Thống. Ngoài ra còn có một nhóm
thứ ba tự gọi là các đảng viên Cộng Hòa Cấp Tiến (Radical Republicans),
họ đề nghị Tướng John C. Fremont, nhưng ông này đã rút lui một tháng
trước cuộc bầu cử.
Mùa hè năm đó, Tổng Thống Lincoln không
đạt được nhiều ủng hộ. Ông Lincoln đã phải thú nhận nơi riêng tư vào
tháng 8 rằng chính quyền của ông sẽ không được bầu lại. Nhưng các thắng
lợi quân sự đã làm thay đổi niềm tin của dân chúng Hoa Kỳ thời bấy giờ.
Ngày 5 tháng 8, Phó Đề Đốc David G. Farragut đã chiến thắng tại Vịnh
Mobile trong khi tại phía nam, Tướng William T. Sherman đã chiếm được
Chattanooga rồi tới ngày 2-9-1864, kéo quân tới Atlanta, Ga., và sau đó,
băng qua tiểu bang Georgia, tới tận bờ biển là thành phố Savannah. Trên
đường tiến quân, đạo quân Miền Bắc này đã đốt sạch các nhà máy, kho
hàng, đã tàn phá các đường xe lửa và cầu cống. Sau khi tới được
Savannah, đạo quân của Tướng Sherman lại quay lên mạn bắc, vượt qua các
tiểu bang South Carolina và North Carolina, chủ đích phối hợp với đạo
quân của Tướng Grant để đánh tới Richmond, Virginia.
Khi cuộc bầu cử Tổng Thống diễn ra, ông
Lincoln đã đánh bại ông McClellan bằng 212/21 phiếu cử tri đoàn
(electoral vote) và thắng hơn 400,000 phiếu bầu phổ thông (popular
votes). Ngày 4 tháng 3 năm 1865, ông Abraham Lincoln ở tuổi 56, đã tuyên
thệ nhậm chức Tổng Thống nhiệm kỳ 2 và nhiệm vụ của ông là đoàn kết lại
quốc gia. Trong bài diễn văn kỳ này, Tổng Thống Lincoln đã trình bày
rằng nhờ cuộc Nội Chiến, chế độ nô lệ mới được hủy bỏ và cả miền Bắc và
miền Nam cùng nhau phải trả giá cho chế độ đó.
Vào mùa xuân năm 1865, đạo quân Miền Nam
của Tướng Lee vừa thiếu người lại hết tiếp liệu trong khi các cánh quân
của Tướng Grant và Tường Sherman đang đánh tới. Ngày 9 tháng 4 năm
1865, Tướng Robert E. Lee đã đầu hàng trước Tướng Ulysse S. Grant tại
Tòa Án Appomattox của Virginia, rồi tới ngày 11-4, lá cờ Sao và Sọc của
Hoa Kỳ đã được kéo lên tại Đồn Sumter, nơi mà cuộc Nội Chiến đã bắt đầu.
Cuộc Nội Chiến Nam-Bắc Mỹ là trận chiến
tranh bi thảm và tàn phá nhất trong Lịch Sử Hoa Kỳ. Đã có vào khoảng 2.5
triệu người phục vụ trong lục quân và hải quân. Hơn 618,000 người Mỹ bị
giết trên chiến trường hay bị chết vì thương tích. Nhưng mặc dù các tổn
thất rất lớn lao về nhân mạng và tài sản, cuộc Nội Chiến đã giải quyết
được hai vấn đề chính, đó là Liên Bang Hoa Kỳ được duy trì và chế độ Nô
Lệ đã bị chấm dứt.
8- Tổng Thống Lincoln bị ám sát.
Nhân vì ăn mừng việc chấm dứt chiến
tranh, Tổng Thống Lincoln cùng với vợ và 2 vị khách đã tới Rạp Hát Ford
tại Thủ Đô Washington để tham dự buổi trình diễn vở hát “Người bà con Mỹ
của chúng tôi” (Our American Cousin). Vài phút sau 10 giờ đêm, một
tiếng súng đã nổ vang trong rạp hát đông người này. John Wilkes Booth là
một trong các kịch sĩ danh tiếng nhất, đã dùng súng lục bắn từ phía sau
vào đầu Tổng Thống Lincoln. Tên Booth đã ám hại Tổng Thống để trả thù
cho phe Miền Nam. Tổng Thống Lincoln nằm bất tỉnh. Gia đình ông và một
số nhân viên cao cấp vây quanh ông, tìm cách cứu chữa. Ông Abraham
Lincoln qua đời lúc 7 giờ 22 sáng ngày 15-4-1865.
Khi còn sống, Tổng Thống Abraham Lincoln
đã bị nhiều người chỉ trích cay đắng nhưng sau khi ông đã qua đời, mọi
người kể cả các kẻ thù cũ của ông cũng phải ca ngợi tấm lòng tử tế và
không vị kỷ của ông. Hàng triệu người đã gọi ông là “Người Cha Abraham”
(Father Abraham). Chiếc xe lửa chở quan tài của ông Lincoln, khởi hành
từ thủ đô Washington hướng về phía tây, đã làm đau lòng hàng trăm ngàn
người đứng chờ đón tại hai bên đường. Ngày 4 tháng 5, thi hài của ông
Abraham Lincoln được chôn cất tại Nghĩa Trang Oak Ridge ở Springfield,
Illinois. Đài kỷ niệm trên ngôi mộ của ông Lincoln đã là nơi hành hương
của dân chúng và nhiều người còn tưởng nhớ tới ông Abraham Lincoln tại
các điểm kỷ niệm thuộc các tiểu bang Illinois, Kentucky, Indiana, và
nhất là tại Gettysburg, Pa., và tại Thủ Đô Washington D.C.
Chỉ sau khi đã qua đời, Thế Giới mới
nhận ra ông Abraham Lincoln là một bậc vĩ nhân. Ông Lincoln đã là một
chính khách siêu đẳng, một nhà lý tưởng cương quyết, một con người kiên
nhẫn và giàu lòng thương kẻ khác.
Ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, các
học sinh, các sinh viên, các người tranh đấu cho Tự Do và Dân Chủ, tranh
đấu chống lại các chế độ độc tài, đàn áp dân chúng, vẫn thường nhắc nhở
tới câu nói bất hủ của ông Abraham Lincoln, vị Tổng Thống thứ 16 của
Hoa Kỳ, đó là câu: “Chính quyền của Dân, do Dân, vì Dân sẽ không bao giờ
suy tàn trên mặt đất”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét