Copy từ Lão Thợ Cạo
Các
lực lượng khmer chống quân đội và chuyên gia VN ở CPC kể cả quân sự lẫn
chính trị, bao gồm những người cộng sản và phi công sản, dưới nhiều
hình thức tổ chức, họ vừa chống nhau vừa hổ trợ nhau tạo thành mạng lưới
rất phức tạp.
Đáng
kể có lực lượng Khmer đỏ do Trung Quốc chống lưng, Khmer Serei (tự do)
do Hoa Kỳ tài trợ, ngoài ra còn có phong trào MOLINAKA. Các tổ chức
Khmer này có mối quan hệ phối hợp với phong trào FULRO Việt Nam qua mạng
tình báo.
Các
nước hậu thuẫn trực tiếp có, gián tiếp có, tổ chức phức tạp không kém.
Thái Lan là nước trung gian và cho mượn đất lập căn cứ huấn luyện và làm
bàn đạp xâm nhập nội địa Campuchia, thêm tình báo Pháp, vài nước Đông
Nam Á và có dính đến vai trò của Liên Hiệp quốc.
Biết
rõ nhất là TC II Việt Nam, các nhà báo nước ngoài không thể hiểu hết
tính phức tạp của các lực lượng chống VN nên nhìn nhận đánh đồng chung
là Khmer đỏ.
(Thợ Cạo)
Tham khảo:
Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh Quốc: tòng phạm của Khmer đỏ
01/03/2009 Mai Vân - RFI
Nhân
dịp Toà Án Quốc tế xét xử tội ác Khờ Me Đỏ mở ra tại Phnom Penh, và
những kẻ phạm tội diệt chủng lần lượt ra trước vành móng ngựa, các tuần
báo Pháp đã nhìn lại thời kỳ đen tối của lịch sử Cam Bốt, để tìm hiểu và
đưa ra ánh sáng những tòng phạm, đã từng đứng sau lưng hỗ trợ chế độ
này
Tạp
chí Le Courrier International đặt câu hỏi: Những kẻ đồng lõa với Khmer
Đỏ sao không không thấy đâu cả ? Nêu bật thắc mắc của một chuyên gia về
Khmer Đỏ, ông John Pilger, đã không thấy nhắc đến những lãnh đạo phương
Tây, đã từng hỗ trợ cho chế độ Pol Pot nhân phiên tòa, Le Courrier
Inetrnational đã trích đang bài viết của chuyên gia này trên tờ báo anh
ngữ độc lập, Phnom Penh Post xuất bản ở thủ đô Cam Bốt.
Nixon và Kissinger đã gián tiếp giúp Pol Pot lên cầm quyền
Tác
giả bài báo có vẻ lấy làm tiếc là hiện nay chỉ có các lãnh đạo Khmer Đỏ
bị đem ra xét xử, trong lúc thảm kịch Cam Bốt bao gồm 3 giai đoạn,
trong vụ diệt chủng chỉ là một giai đoạn, và duy nhất được ghi lại trong
ký ức chính thức. Theo John Pilger, Pol Pot không thể nào lên nắm quyền
nếu tổng thống Mỹ thờI đó Richard Nixon và cố vấn của ông là Henry
Kissinger đã không mở chiến dịch tấn công tại Cam Bốt, vào thời nước này
còn là một quốc gia trung lập.
Năm
1973, pháo đài bay B.52 đã dội xuống Cam Bốt một lượng bom còn cao hơn
số bom mà Nhật Bản hứng chiụ trong suốt Đệ nhị Thế chiến. Theo Pilger,
số người Cam Bốt bị chết ước tính khoảng 600.000 người. Một số hồ sơ đã
cho thấy là cơ quan tình báo Mỹ CIA đã đo lường đươc hậu quả chính trị
của chiến dịch. Họ đã cảnh báo : thiệt hại do B.52 gây ra là trọng tâm
tuyên truyền của Khmer Đỏ, mà theo CIA, ''đã tuyển mộ đươc một số lớn
thanh niên, trong số những người chạy lánh nạn chiến sự".
John
Pilger kết luận miả mai là Khmer Đỏ đã hoàn tất những gì mà Nixon và
Kissinger đã bắt đầu. Thế nhưng Kissinger sẽ không ngồi vào ghế bị cáo ở
Phnom Penh vì ông đang bận cố vấn cho tổng thống Barack Obama trên các
vấn đề điạ lý chiến lược.
Nước Anh của Thatcher bí mật tiếp tay cho Khmer Đỏ
Nhưng
không phải có Hoa Kỳ và Henry Kissinger bị lên án. John Pilger còn nêu
tên một người khác: cựu thủ tướng Anh, bà Margaret Thatcher, và những
viện chức cao cấp của Anh, nay đã về hưu. Họ đã bí mật hỗ trợ cho Khmer
Đỏ, sau khi chế độ này bị Việt Nam đánh đuổi. Đây là giai đoạn 3.
Năm
1979, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã áp đặt cấm vận đối với một nhà nước Cam Bốt
bị kiệt quệ. Vì là người giải phóng Cam Bốt, Việt Nam đã không đứng về
phe tốt trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Pilger
còn nhận thấy là chưa bao giờ một chiến dịch do bộ ngoại giao Anh tổ
chức lại trắng trợn và dữ dằn như thế. Anh Quốc đòi hỏi là chế độ không
còn nữa của nước Kampuchéa Dân chủ, được giữ ''quyền'' đại diện cho nạn
nhân của họ ở Liên Hiệp Quốc. Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc, đã biạ đặt
ra một liên minh ''không cộng sản'' lưu vong, mà thật ra chủ yếu gồm
phe Khmer Đỏ. Ở Thái Lan, các cơ quan tình báo Mỹ CIA và DIA (tình báo
quốc phòng) đã duy trì quan hệ mật thiết với Khmer Đỏ.
Năm
1983, chính quyền Anh của bà Margaret Thatcher, còn cử lực lượng đặc
biệt SAS đến huấn luyện cho các thành phần này, đặc biệt là các kỹ thuật
gài mìn. Khi trả lời dân biẻu đối lập Neil Kinnock, bà Thatcher khi đó
đã hoàn toàn phủ nhận, khẳng định rằng chính quyền Anh không hề dính líu
vào việc huấn luyện, trang bị, hay một hình thức hợp tác nào, với lực
lượng Khmer Đỏ hay đồng minh của họ. Có điều là năm 91, chính phủ kế
nhiệm là John Major đã phải thú nhận trước Quốc Hội Anh là lực lượng đặc
biệt SAS đã thực sự tham gia huấn luyện một cách bí mật cho lực lượng
Pol Pot.
Tác
giả bài báo kết luận, nếu công lý quốc tế không phải là một tấn hài
kịch, thì phải gọi những người đồng hành với kẻ phạm tội ác ra trưóc toà
án Phnom Penh. Ít ra là phải ghi tên họ vào ‘’danh sách nhục nhã’’.
John Pilger là một chuyên gia về thời kỳ Khmer Đỏ, từng là phóng viên
chiến trường, đồng thời là nhà văn, nhà đạo diễn phim. Ông là tác giả 2
bộ phim về thời kỳ Khmer Đỏ.
Hoa Kỳ đẩy Sihanouk vào vòng tay Khmer Đỏ
Le
Monde 2, tạp chí hàng tuần của nhật báo Le Monde, đã ghi nhận một hệ
quả khác của chiến dịch Mỹ tiến hành ở Cam Bốt : đẩy quốc vương Sihanouk
đến với Khờ me đỏ.
Dưới
tựa đề ‘’Sihanouk trong bóng Khmer Đỏ’’, tạp chí đăng lại một số bức
ảnh ông Sihanouk chụp với các chiến sĩ trẻ hoặc bên cạnh các lãnh đạo
Khmer Đỏ như Khiêu Samphan, trong bức ảnh đến tham quan thác Phnom Kulen
ở vùng giải phóng, hay ảnh hoàng hậu Monique đứng bên cạnh vợ của Pol
Pot. Theo lời chú thích, hai tấm ảnh này chụp vào tháng 3 và tháng tư
năm 1973.
Một
bức ảnh nữa cũng chụp Khiêu Samphan và Sihanouk ở Siem Reap, gần đền
Angkor, chụp thời kỳ ông trở lại Phnom Penh, sau tháng 4 năm 1975. Hàng
chú thích dưới bức ảnh giải thích: đây là một trong nhũng lần hiếm hoi
mà ông Sihanouk rời cung điện ở Phnom Penh. Ông là nguyên thủ quốc gia
nhưng không có quyền hạn gì và thật ra là tù nhân của Khmer Đỏ, từ tháng
tư năm 1975 cho đến đầu năm 1976 (lúc ông từ chức).
Tạp
chí Le Monde 2 cho biết là các bức ảnh trên nằm trong tài liệu lưu trữ
cá nhân mà cưụ quốc vương Cambốt đã tặng cho Trưòng Viễn Đông Bác Cổ
vào năm 2004. Hàng trăm ngàn tài liệu mà công việc kiểm kê, sắp xếp lại
số tài liệu này chỉ vừa mới kết thúc. Tạp chí hoan nghênh thái độ minh
bạch hoá lịch sử hiếm thấy của một nguyên thủ quốc gia.
Về
bức ảnh đầu tiên, Francis Deron, tác giả bài báo dài lược qua thời kỳ
này, và giải thích rằng: vào một ngày tháng 3 năm 1973, ở một góc rừng
Cam Bốt, những chiến sĩ Khmer Đỏ đươc chọn lựa kỹ càng, đã được đưa đến
chào người Cha đất nước, trước ống kính của một nhiếp ảnh gia do Trung
Quốc đào tạo và trang bị.
Do
đâu ông Sihanouk đã đến với Khmer Đỏ? Dĩ nhiên là do chiến dịch của Hoa
Kỳ ở Cam Bốt, việc dựng lên chính quyền Lon Nol, năm 1970. Bị quân đội
lật đổ, không còn đươc hậu thuẩn của phưong Tây, Quốc vương Sihanouk,
lánh nạn ở Bắc Kinh, đã không còn con đường nào khác là nghe lời của
Trung Quốc liên minh với du kích quân Khmer Đỏ, mà trước đó ông vẫn cho
săn đuổi.
Trong
bài lược lại tình hình, Francis Deron nêu bật trở lại sự thay đổi thái
độ của Henry Kissinger. Theo bài báo khi Pol Pot lên nắm quyền ở Phnom
Penh, các nhà phân tích của CIA đã cố cảnh báo về chế độ độc tài đang
đươc thiết lập ở đây. Nhưng CIA không phải là một nguồn tin đáng tin
cậy. Chỉ có một người lắng nghe họ: Henry Kissinger, nhưng không phải là
để ngăn chặn.
Bài
báo trích lại lời của Kissinger, ngày 26 tháng 11 năm 1975, trong buổi
ăn trưa ở bộ Ngoại giao với một đoàn đại diện Thái Lan: "Chúng tôi nghĩ
là mối đe doạ lớn nhất đối với Đông Nam Á hiện giờ, đến từ Miền Bắc
Việt Nam. Chiến lược của chúng tôi là, là lôi kéo Trung Quốc đến Lào và
Cam Bốt để ngăn chăn Việt Nam. Hãy nói với những người ở Cam Bốt rằng
chúng tôi sẽ là bạn của họ. Họ là những tên côn đồ sát nhân, nhưng nói
riêng giữa chúng ta thì điều đó không quan trọng. Chúng tôi sẳn sàng cải
thiện quan hệ với họ. Hãy nói lại vớI họ phần cuối những gì tôi vừa
nêu, đừng lập lại phần đầu’’.
(Những
lời lẽ này nằm trong số tài liệu giải mật ngày 27 tháng 7 năm 2004). Và
dĩ nhiên phía Thái Lan đã tường thuật lại cho Trung Quốc, và Bắc Kinh
lập lại cho Khmer Đỏ.
Francis
Deron nhận định là để trừng phạt Việt Nam, Henry Kissinger không ngần
ngại sử dụng mọi phương cách. Việc Khmer Đỏ thù ghét Việt Nam là một
công cụ tốt. Vả lại từ năm 1972, Bắc Kinh và Washignton không còn là kẻ
thù nữa. Năm 1976, Trung Quốc ở vào một thờI điểm then chốt. Mao Trạch
Đông qua đờI, Đặng Tiểu Bình sẽ cầm cương Trung Quốc. Đặng Tiều Bình,
theo Deron, thù ghét Việt Nam không kém gì Kissinger.
Bài
báo cũng nhắc lại là từ 1975 đến cuối 1978, Khmer Đỏ thực hiện kế hoạch
thảm sát. Được sự hổ trợ của Trung Quôc và sự đồng ý ngầm của Phương
Tây.
Như
trả lờI thắc mắc của đồng nghiệp John Pilger, không thấy nhũng nguời
bạn của Khmer Đỏ ở đâu trong vụ xét xử hiện nay, Deron cho là đã có
những cuộc mặc cả gay go và thoả hiệp để chỉ xét xử những hành vi Khmer
Đỏ trong giai đoạn từ năm 1975 đến ngày mùng 7 tháng giêng 1979. Phần
còn lại, lịch sử sẽ phán xét.
Thái Lan chưa thoát khỏi quá khứ phong kiến
Tiếp
tục nhìn sang Châu Á, le Courrier International chú trọng đến Thái Lan.
DướI tựa đề ‘’Bất bình đẳng như là nền tảng của xã hội’’, tạp chí
trích dẫn tờ Bangkok Post, lấy làm tiếc là khái niệm nhân quyền chưa
thâm nhập thực sự vào xã hội Thái, và sở dĩ Thái Lan vẫn là đứa học trò
kém cỏi về nhân quyền, đó là vì chưa thóat ra khỏi quá khứ phong kiến.
Bài
báo nhắc lại là sau khi bị tố cáo ngược đãi ngườì tỵ nạn sắc tộc
Rohingya (Miến Điện), chính quyền Bangkok đã mở cửa cho Cao ủy Tỵ nạn
Liên Hiệp Quốc, và cho các tổ chức phi chinh phủ để vào điều tra.
Nhưng
câu hỏi được nêu ra là chính quyền có thực sự giải quyết tận gốc vấn đề
hay không ? Theo bài báo, người Thái Lan không chia sẻ khái niệm nhân
quyền như người ta thấy ở phương Tây, ví dụ như đối với người hồi giáo
Thái Lan. Việc họ bị đẩy ra bên lề xã hội là một thực tế, và phần lớn xã
hội không thấy đoái hoài, tỏ cảm tình đối vơí thành phần này.
Suy
nghĩ là mọi người đều có những quyền bình đẳng như nhau không có ở Thái
Lan. Xã hội được xây dựng trên một nền tảng tôn ti trật tự. Thời phong
kiến, mỗi tầng lớp xã hội có những quyền lợi khác nhau, trong mỗi tầng
lớp thì đàn ông vẫn có quyền hơn đàn bà.
Cho
đến nay thì người ta cũng không thực sự đòi hỏi quyền bình đẳng, Mọi
người có vẻ an phận với chỗ đứng của mình bất kỳ là trong tầng lớp xã
hội nào. Người Thái đã không thoát khỏi cơ cấu xã hội cứng nhắc dù quyền
lợi của họ bị chà đạp. Không ai muốn thay đổi, kể cả giới chính trị.
Bài
báo kết luận nếu thủ tướng Abhisit muốn thật sự cải thiện, tìm giải
pháp cho vấn đề nhân quyền hiện nay thì ông phải thay đổi cả hệ thống xã
hội, chính trị Thái, cách quan hệ giữa con người và con người. Tóm lại
điều khó thể hay chưa thể làm được.
Trung Quốc : từ đại nhảy vọt đến đại hoài nghi
Tạp
chí Anh The Economist tuần này chú trọng đến việc Bắc Kinh kềm hãm Tây
Tạng với bàn tay sắt, trong lúc tạp chí kinh tế Pháp l'Expansion thì
nhìn kinh tế Trung Quốc, và tóm lược tình hình trong hàng tựa hóm hỉnh:
"Trung Quốc đi từ đại nhảy vọt đến đại hoài nghi". Tất cả các vùng
miền, các vùng phát triển nhất cũng như tầng lớp trung lưu, không ai
thoát khỏi tác động khủng hoảng kinh tế.
Năm
nay theo l'Expansion, tình hình càng nguy hiểm với những lễ kỷ niệm
lịch sử, 60 năm ngày Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, 50 năm ngày
Đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong, 20 năm ngày đàn áp phong trào sinh viên
Thiên An Môn.
L'Expansion
ghi nhận yếu tố đáng ngại đối với chính quyền là người dân không còn sợ
xuống đường để đấu tranh cho quyền lợi của mình. Năm 2005, theo số liệu
chính thức, đã có 87.000 cụôc biểu tình, phần lớn do các do vụ trưng
thu đất đai. Nhưng bây giờ tình hình càng nguy hiểm do nạn thất nghiệp,
đặc biệt trong số các dân công, ước tính có 20 triệu người mất việc làm.
Ngày càng nhiều các công ty bị lỗ lã phải đóng cửa, và thường khi là
không trả đươc lương công nhân. Tình cảnh bị sa thải, lại không tiền, họ
là một thách thức lớn lao về mặt xã hội đối với chính quyền.
Trở
lại vớí tạp chí Anh the Economist, nhận định về đối sách của Bắc Kinh
đối với Tây Tạng, Tạp chí này nhìn thấy Trung Quốc chọn biện pháp mạnh
vì có nhiều thuận lợi : tình hình êm xuôi, Tây Tạng không còn được thế
giới quan tâm như vào năm ngoái. Trong chuyến công du vừa qua, tân ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton không đặt nặng vấn đề nhân quyền và Tây
Tạng.
Nhưng
the Economist cảnh báo là đàn áp không phải phương thức dẫn đến thành
công chính trị. Theo tạp chí Anh, cái gai đối với chính quyền Bắc Kinh
vẫn là Đức Đạt lai Lạt Ma. Lãnh đạo Trung Quốc nghĩ là mọi vấn đề sẽ
đươc giải quyết khi ngài mất đi. Nhưng theo the Economist hệ quả có thể
ngược lại, và Bắc Kinh có thể sẽ tiếc nuối ảnh hưởng ôn hoà của ngài.
_______________
NHỮNG ĐỒNG MINH CỦA POLPOT Ở MỸ VÀ ANH
Tác giả: John Pilger (nhà báo và nhà làm phim tài liệu điều tra đoạt giải Pulitzer người Australia)
Nguồn: http://www.freerepublic.com/forum/a3902258f0b7b.htm
17
tháng Tư năm nay (2000), là 25 năm từ khi Khmer Đỏ của Polpot tiến vào
Phnom Penh. Trong lịch của sự cuồng tín, đó là Năm Số Không; khoảng hai
triệu người, một phần năm dân cư của Campuchia, sẽ chết như một hệ quả
của ngày hôm đó. Để đánh dấu ngày kỷ niệm này, tội ác của Polpot sẽ được
nhắc đến, gần như một hành động mang tính nghi thức cho những người tò
mò về những trò chính trị đen tối và không giải thích được. Đối với
những người cầm chịch của sức mạnh phương tây, những bài học đúng sẽ
không được rút ra, vì không có những kết nối nào sẽ được dẫn tới họ và
tới những người đi trước của họ, những người đã từng là đối tác kiểu
Faust (nhân vật huyền thoại thời trung cổ đã bán linh hồn cho ác quỉ để
đổi lấy kiến thức và sức mạnh) với Polpot. Tuy vậy, sự thật vẫn là sự
thật, nếu không có sự đồng lõa của phương Tây, Năm Số Không có thể đã
chưa bao giờ xảy ra, hay sự đe dọa trở lại của nó đã không được nuôi
dưỡng lâu dài đến như vậy.
Những
tài liệu giải mật của chính phủ Mỹ để lại rất ít nghi ngờ rằng việc ném
bom bí mật và bất hợp pháp lên lãnh thổ nước Campuchia trung lập lúc đó
bởi Tổng thống Richard Nixon và Henry Kissinger giữa 1969 và 1973 đã
gây ra chết chóc và tàn phá trên bình diện rộng, và nó đã tạo điều kiện
cho sự hình thành sức mạnh của lực lượng Polpot. "Họ đang sử dụng thiệt
hại gây ra bởi những vụ ném bom B52 như là đề tài chính để tuyên truyền"
Giám đốc hoạt động của CIA tường trình tháng 2/1973. "Cách tiếp cận này
đã dẫn đến sự tuyển mộ thành công thanh niên. Dân chúng nói rằng chiến
dịch tuyên truyền đã có hiệu quả với những người tị nạn trong những vùng
là mục tiêu của B52." Qua việc thả một khối lượng bom tương đương với
năm quả bom ở Hiroshimas lên một cộng đồng nông dân, Nixon và Kissinger
đã giết chết ước tính khoảng một nửa triệu người. Năm Số Không bắt đầu,
trên thực tế, là với họ (Nixon và Kissinger); việc ném bom bừa bãi là
một chất xúc tác cho sự nổi lên của một nhóm bè phái nhỏ, Khmer Đỏ, mà
chủ trương là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mao và nếp sống thời Trung cổ
trước đó không có sự ủng hộ trong đại chúng.
Sau
hai năm rưỡi nắm quyền, Khmer Đỏ bị lật đổ bởi quân đội Việt nam vào
Ngày Lễ Noel, 1978. Và những tháng năm sau đó, Mỹ cùng với Trung Quốc và
những đồng minh của họ, đáng chú ý là chính phủ Thatcher (Thủ tướng Anh
lúc đó), đã chống lưng cho Polpot đang đào tị trên đất Thái. Ông ta là
kẻ thù của kẻ thù của họ: Việt Nam. Công giải phóng Campuchia của nước
này đã không thể được công nhận, vì họ ở bên kia chiến tuyến của cuộc
Chiến tranh Lạnh. Đối với người Mỹ, bây giờ đang ủng hộ Bắc Kinh chống
lại Moskva, có một bàn thua cần phải gỡ cho mối nhục của họ khi phải
tháo chạy khỏi Sài Gòn trên những mái nhà.
Về
việc này, Liên Hiệp Quốc đã bị lạm dụng bởi những cường quốc. Mặc dù
chính phủ Khmer Đỏ ("Kampuchea Dân chủ") đã ngừng tồn tại từ tháng
Giêng, 1979, những người đại diện của nó vẫn được phép tiếp tục chiếm
giữ cái ghế của Campuchia tại Liên Hợp Quốc; Thực vậy, Mỹ, Trung quốc và
Nước Anh đã đòi hỏi như thế. Cùng lúc đó, một lệnh cấm vận của Hội đồng
Bảo an lên nước này đã làm tăng thêm sự khốn khổ mất mát của một đất
nước đang bị tổn thương nặng nề, trong khi Khmer Đỏ đang đào tị thì gần
như muốn gì được nấy. Vào 1981, cố vấn An ninh quốc gia của Tổng thống
Mỹ Jimmy Carter, Zbigniew Brzezinski, nói: "Tôi động viên người Trung
hoa hỗ trợ Polpot". Nước Mỹ, ông ta thêm rằng, "nháy mắt công khai" khi
Trung quốc gửi vũ khí cho Khmer Đỏ.
Sự
thật là Mỹ đã bí mật tài trợ cho Polpot lúc đang đào tị từ tháng Giêng,
1980. Qui mô của sự hỗ trợ này -- 85 triệu USD từ 1980 đến 1986 -- đã
được tiết lộ ra qua một bức thư gửi tới một thành viên của Ủy ban Quan
hệ Nước ngoài của Thượng viện. Trên biên giới Thái Lan với Campuchia,
CIA và các cơ quan tình báo khác thiết lập một cơ quan gọi là Nhóm Cứu
cấp Campuchia, mà nhiệm vụ là bảo đảm hàng cứu trợ nhân đạo sẽ đến những
khu của Khmer Đỏ trong những trại tị nạn và bên kia biên giới. Hai
người Mỹ làm việc cứu trơ, Linda Mason và Roger Brown, sau đó viết
"Chính phủ Mỹ nhấn mạnh rằng Khmer Đỏ phải được nuôi... Mỹ thích việc
nuôi cơm cho Khmer Đỏ đó được hưởng dưới uy tín của hoạt động cứu trợ mà
cả thế giới biết đến. "Dưới sức ép Mỹ, Chương trình Thực phẩm Thế giới
đã trao hơn 12 triệu USD giá trị thực phẩm cho quân đội Thái Lan để
chuyển qua cho Khmer Đỏ; "20.000 tới 40.000 kháng chiến quân Polpot đã
hưởng lợi", Richard Holbrooke, trợ lý bộ trưởng ngoại giao Mỹ lúc đó,
viết.
Tôi
chứng kiến điều này. Đi cùng đoàn xe của Liên Hợp Quốc gồm 40 xe tải,
Tôi đến một khu căn cứ hoạt động của Khmer Đỏ ở Phnom Chat. Người chỉ
huy cơ sở này là Nam Phann, một người khét tiếng, được nhân viên cứu trợ
biết đến với cái tên "Đồ tể" và "Himmler của Polpot". Sau khi đồ cung
cấp đã được bốc dỡ hết, ngay dưới chân mình, ông ta nói "Cám ơn bạn rất
nhiều, và chúng tôi muốn có thêm nữa".
Trong
tháng Mười Một của năm đó, 1980, tiếp xúc trực tiếp giữa nhà Trắng và
Khmer Đỏ đã được bố trí khi Bác sĩ Ray Cline, một cựu phó giám đốc của
CIA, làm một cuộc viếng thăm bí mật đến một trụ sở hoạt động chính của
Khmer Đỏ. Lúc đó Cline là một cố vấn về chính sách đối ngoại trong nhóm
chuyển tiếp của Tổng thống vừa đắc cử là Reagan. Đến năm 1981, một số
chính phủ trên thế giới đã trở nên rõ ràng khó chịu với trò đố chữ của
Liên Hợp Quốc đang tiếp tục công nhận cái chế độ đã chết từ lâu của
Polpot. Cần phải làm một cái gì đó để cải thiện tình hình. Năm sau đó,
Mỹ và Trung Quốc sáng chế ra Liên minh của Chính phủ Dân chủ Campuchia,
mà thực sự không phải là một Liên minh, cũng không phải Dân chủ, hay là
một Chính phủ, hay hiện hữu trên đất Campuchia. Nó là cái mà CIA gọi là
"Một ảo tưởng bậc thầy". Hoàng tử Norodom Sihanouk được chỉ định làm cái
đầu của nó; ngoài ra không có gì khác nhiều cả. Hai nhóm "không cộng
sản", nhóm một là những người theo Sihanouk, thì được dẫn dắt bởi con
trai của Hoàng tử là Norodom Ranariddh, nhóm thứ hai là Mặt trận Giải
phóng Quốc gia của người Khmer, mà về ngoại giao và quân sự, bị khống
chế bởi phe Khmer Đỏ. Một trong số những bạn thân của Polpot, Thaoun
Prasith, là người điều hành văn phòng đại diện của họ tại Liên Hợp Quốc ở
New York.
Ở
Bangkok, người Mỹ cung cấp cho "liên minh" này những kế hoạch tác
chiến, đồng phục, tiền và tình báo từ vệ tinh; vũ khí thì đến trực tiếp
từ Trung quốc hay từ phương tây, theo đường Singapore. Phe không cộng
sản đáng xấu hổ trên đã trở thành cái cớ cho phép Quốc hội -- được thúc
đẩy bởi một người cuồng tín về Chiến tranh Lạnh là Stephen Solarz, một
chủ tịch ủy ban có thế lực -- phê duyệt 24 triệu USD giá trị viện trợ
cho "kháng chiến".
Cho
đến 1989, vai trò của Anh ở Campuchia vẫn còn nằm trong bí mật. Những
tường trình đầu tiên xuất hiện trên tờ Sunday Telegraph, viết bởi Simon
O'Dwyer- Russell, một phóng viên ngoại giao và quốc phòng có những tiếp
xúc nghề nghiệp và gia đình gần gũi với SAS (lực lượng đặc biệt của
Anh). Ông ta tiết lộ rằng SAS đang huấn luyện lực lượng do Polpot cầm
đầu. Không lâu sau đó, tờ Jane's Defense Weekly lại cho biết rằng việc
huấn luyện của Anh cho những thành viên "không cộng sản" của "liên minh"
đó đã được thực hiện "tại những căn cứ bí mật trên đất Thái trong hơn
bốn năm rồi". Huấn luyện viên được cử đến từ SAS, "Tất cả bọn họ đều là
những nhân viên quân sự đang tại ngũ, cựu chiến binh của cuộc xung đột
Falklands, được dẫn dắt bởi một đại úy".
Việc
huấn luyện ở Campuchia đã trở thành riêng của Anh sau khi vụ
"Irangate", vụ vũ khí đổi con tin, vỡ lở ra ở Washington vào năm 1986.
Nếu Quốc Hội biết được chuyện người Mỹ có dính dáng đến chương trình
huấn luyện bí mật ở Đông Dương, chưa nói đến việc đó là huấn luyện cho
lực lượng Polpot", một nguồn tin từ Bộ Quốc phòng cho O'Dwyer- Russell
cho biết, "Cái bong bóng đó chắc đã bay ngay lên. Đó là một trong những
vụ dàn dựng ăn ý cổ điển giữa Thatcher và Reagan". Hơn nữa, Margaret
Thatcher đã vuột miệng, trước sự kinh ngạc của Bộ Ngoại giao, rằng
"những người ôn hòa hơn trong lực lượng Khmer Đỏ sẽ phải đóng vai trò
nào đó trong chính phủ tương lai". Vào 1991, tôi phỏng vấn một thành
viên của Đội "R" (đội dự bị) của SAS, một người đã từng phục vụ ở vùng
biên giới. "Chúng tôi đã huấn luyện Khmer Đỏ về rất nhiều những nội dung
kỹ thuật -- rất nhiều về mìn," anh ta nói. "Chúng tôi đã sử dụng mìn
nguyên thủy đến từ Kho Đạn dược Hoàng gia ở nước Anh, đi qua đường
Ai-cập để đổi nhãn mác... Chúng tôi thậm chí còn huấn luyện họ về tâm
lý. Lúc đầu, họ muốn đi vào làng để chém người thôi. Chúng tôi đã bảo họ
cách làm sao để cảm thấy thư thái hơn..."
Bộ
Ngoại giao đã phản ứng trước những thông tin này bằng cách nói láo.
"Nước Anh không có một sự giúp đỡ quân sự dưới bất kỳ hình thức nào cho
các đảng phái ở Campuchia", một nghị viên phát biểu. Thủ tướng Anh lúc
đó, Thatcher, viết cho Neil Kinnock, "Tôi xác nhận rằng không có sự liên
can nào giữa chính phủ Anh dưới bất kỳ hình thức nào tới việc huấn
luyện, trang bị hay hợp tác với Khmer Đỏ hay những nhóm đồng minh với
họ." Vào 25 tháng Sáu, 1991, sau hai năm chối quanh, chính phủ cuối cùng
cũng phải thừa nhận rằng SAS đã bí mật huấn luyện "quân kháng chiến" từ
1983. Một tường trình bởi Asia Watch đã mô tả chi tiết: SAS đã dạy
"cách sử dụng những thiết bị nổ tự tạo, bẫy và chế tác, sử dụng những
thiết bị kích nổ chậm". Tác giả của bản tường trình, Rae McGrath (người
cùng đoạt Giải thưởng Nobel Hoà bình từ cuộc vận động quốc tế về mìn),
viết trên tờ Guardian rằng "Việc huấn luyện của SAS là một chính sách
phạm tội vô trách nhiệm và đê tiện".
Khi
cuối cùng, một "lực lượng gìn giữ hoà bình" của Liên Hợp Quốc cũng đã
đặt chân đến ở Campuchia vào 1992, bản hiệp ước bán linh hồn cho ác quỉ
đã lộ rõ hơn bao giờ hết. Được gọi đơn thuần nhẹ nhàng là một "thành
phần trong cuộc chiến", Khmer Đỏ được chào đón quay trở lại Phnom Penh
bởi viên chức của Liên Hợp Quốc, nếu không phải là bởi người dân. Một
chính khách phương tây, người đã giành công kiến tạo "tiến trình hoà
bình", Gareth Evans (ngoại trưởng Úc lúc đó), lên tiếng trước bằng việc
yêu cầu nên có một cách tiếp cận "vô tư" đối với Khmer Đỏ và đặt ra câu
hỏi rằng liệu gọi việc họ làm là diệt chủng có phải đã tạo ra "một viên
đá cản đường rõ ràng" không.
Khieu
Samphan, thủ tướng của Polpot trong thời gian những năm diệt chủng,
tiếp nhận dàn chào của quân đội Liên Hợp Quốc với người chỉ huy của họ,
tướng người Australia John Sanderson, đứng bên cạnh ông ta. Eric Falt,
người phát ngôn của Liên Hợp Quốc ở Campuchia, nói với tôi: "Mục tiêu
của tiến trình hoà bình là cho phép [Khmer Đỏ] gầy dựng lại tiếng tăm."
Hệ
quả của việc nhúng tay vào của UN là việc tách ra không chính thức ít
nhất một phần tư Campuchia cho Khmer Đỏ (theo bản đồ quân sự của Liên
Hợp Quốc), cùng sự tiếp tục của một cuộc nội chiến âm ỉ và cuộc bầu cử
của một chính phủ bị chia rẽ hết thuốc chữa giữa "hai thủ tướng" Hun Sen
và Norodom Ranariddh.
Chính
phủ Hun Sen kể từ sau đó đã thắng cuộc bầu cử thứ hai một cách dứt
khoát. Một người độc đoán và đôi khi thô bạo, tuy vậy theo tiêu chuẩn
Campuchia vẫn là ổn định lạ thường, chính phủ được dẫn dắt bởi một người
bất đồng quan điểm với Khmer Đỏ cũ, chạy trốn sang Việt Nam từ những
năm 1970, đã giải quyết xong những thoả thuận với những nhân vật lãnh
đạo thời Polpot, đáng chú ý là nhóm ly khai của Ieng Sary, trong khi từ
chối những người khác việc miễn tố.
Một
khi chính phủ Phnom Penh và Liên Hợp Quốc có thể đồng ý về một khuôn
mẫu, một tòa án tội ác chiến tranh quốc tế sẽ có nhiều khả năng tiến
hành. Người Mỹ không muốn có sự tham gia nhiều của người Campuchia; mối
quan tâm của họ thật dễ hiểu vì không chỉ có Khmer Đỏ sẽ bị buộc tội.
Luật
sư Campuchia bảo vệ Ta Mok, người lãnh đạo quân Khmer Đỏ bị bắt năm
ngoái, đã nói: "Mọi người ngoại quốc liên quan phải được gọi ra trước
tòa án, và sẽ không có những ngoại lệ... Madeleine Albright, Margaret
Thatcher, Henry Kissinger, Jimmy Carter, Ronald Reagan và George Bush...
Chúng tôi sẽ mời họ tới để nói cho thế giới biết rằng tại sao họ đã hỗ
trợ cho Khmer Đỏ".
Đó
là một nguyên lý quan trọng, mà Washington và Whitehall, hiện thời nếu
đang nuôi dưỡng những tên bạo chúa tay dính đầy máu ở nơi nào đó trên
thế giới, thì nên ghi nhớ lấy.
Theo DIEHARD CAT
Nguồn: Reds
0 nhận xét:
Đăng nhận xét