"MỖI TẤC GIANG SƠN MỘT DÒNG MÁU ĐỎ"
"Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm!"
(st:Lê Bá Dương)
"Thành cổ Quảng Trị" mùa hè 1972 (28/6-16/9/1972)
Xin gửi lời tri ân tới lớp lớp các thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh một phần xương máu hoặc vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường, để thế hệ trẻ chúng ta hôm nay và con cháu mai sau được sống trong nền hòa bình và độc lập của dân tộc Việt Nam!!!
Xin dâng chút tâm hương thành kính lên cách anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ thành cổ năm 1972!
Xin gửi lời tri ân tới lớp lớp các thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh một phần xương máu hoặc vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường, để thế hệ trẻ chúng ta hôm nay và con cháu mai sau được sống trong nền hòa bình và độc lập của dân tộc Việt Nam!!!
Xin dâng chút tâm hương thành kính lên cách anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ thành cổ năm 1972!
Trong
lịch sử chiến tranh thế giới, chưa hề có một cuộc hành quân nào mà mục
tiêu chủ yếu chỉ đánh vào một tòa Thành cổ, có chu vi 2.080m, rộng chưa
đầy 3km2, khiến đối phương có thể huy động một lực lượng hải, lục, không quân đông và sử dụng một khối lượng chất nổ khổng lồ như vậy.
Chính
trong chiến dịch phản kích mang tính hủy diệt đó của kẻ thù, Thành cổ
Quảng Trị đã mở đầu trang sử vô cùng oanh liệt, hào hùng bằng cuộc chiến
đấu cực kỳ gian khổ, hiểm nguy và dũng cảm qua 81 ngày đêm mùa hè rực
lửa, rung chuyển cả nước và toàn cầu từ ngày 28-6-1972 đến ngày
16-9-1972.
Lực
lượng ta ở vòng trong thị xã, lúc đầu có Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B và
hai tiểu đoàn bộ đội địa phương. Khi cao điểm, có thêm Trung đoàn 95,
Sư đoàn 325 và Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 64. Chỉ huy sở của Mặt trận
thị xã đặt tại hầm trong dinh Tỉnh trưởng ngụy, bên bờ sông Thạch Hãn.
Lực lượng vòng ngoài có Sư đoàn 320B ở cánh Đông, Sư 308 ở cánh Nam,
cùng các đơn vị xe tăng, pháo cao xạ và lực lượng du kích các xã phụ
cận. Các chốt quan trọng như: Long Quang, nhà thờ Trí Bưu, ngã ba Long
Hưng, trường Bồ Đề, ngã ba Cầu Ga... là những nơi, quân ta bất chấp mọi
nguy hiểm, gian khổ, hy sinh, kiên quyết đập tan các đợt phản kích của
địch. Đặc biệt, trong Thành cổ Quảng Trị, là tiêu điểm ác liệt nhất và
cũng là nơi thể hiện tinh thần chiến đấu phi thường, huyền thoại, cực kỳ
dũng cảm, hy sinh của quân dân ta. Tại đây, trung bình, một chiến sĩ
phải hứng chịu hơn 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Có ngày như ngày
25-7-1972, kẻ thù bắn vào Thành Cổ 5.000 quả đạn. Bốn dãy tường thành ở
bốn phía đông, tây, nam, bắc, dày 12m, đều bị vỡ dần; đến một viên gạch
nơi đây cũng không còn nguyên vẹn.
Cuộc
chiến đấu ở đây diễn ra như một huyền thoại. Và cách đánh địch nhiều
khi cũng vượt ra khỏi những quy ước thông thường: Súng cối 60mm, được
các chiến sĩ kẹp nách, bắn ứng dụng liên tục mấy chục quả một lần; lựu
đạn sau khi rút chốt, phải tính toán sao cho khi nó vừa bay tới mục tiêu
là nổ. Có lúc, chiến sĩ bò sát miệng hầm của địch rồi mới tung lựu đạn
vào. Trong một trận đánh, có chiến sĩ bắn tới 14 quả đạn B40, diệt 32
tên địch. Tại mặt trận, nhiều chiến sĩ bị thương một, hai, thậm chí ba
lần, vẫn chiến đấu, không chịu về tuyến sau. Các chiến sĩ bộ binh, công
binh, quân y, thông tin, đều cầm súng đánh địch. Bằng tính kỷ luật tuyệt
vời, tinh thần dũng cảm, ý chí ngoan cường và sự hy sinh vô bờ, ai nấy
kiên quyết giữ vững trận địa trong suốt 81 ngày đêm. Đó là 81 ngày đêm
lịch sử bi tráng, ác liệt, hào hùng, đầy hy sinh và mãi mãi bất tử.
Đại
đội 1, Tiểu đoàn 25 vận tải, Sư đoàn 320B nhận thấy, nếu chỉ dùng sức
người mang vác vũ khí vào thị xã và dùng võng cáng thương binh ra, với
quãng đường dài hàng chục cây số, dưới làn bom đạn của máy bay, pháo mặt
đất và pháo hạm của địch thì khá vất vả, hiểm nguy mà hiệu quả thấp.
Còn như dùng thuyền, vận chuyển qua sông Thạch Hãn, sẽ được nhiều hơn.
Ban chỉ huy đại đội bàn bạc và thống nhất với phương án của Đại đội
trưởng Nguyễn Thanh Mai (sau này, đồng chí là giảng viên của Học viện
Lục quân Đà Lạt), vận động địa phương cho dùng thuyền máy của bà con ngư
dân đi sơ tán, để lại ở các thôn, xóm ven sông, làm phương tiện vận
chuyển. Được cấp trên chuẩn y, các chiến sĩ khẩn trương tìm những chiếc
thuyền có máy móc còn tốt và một số thùng dầu ma-dút để chạy máy.
Nhớ
lại những ngày ấy, các chiến sĩ không thể quên sự giúp đỡ tận tình, có
hiệu quả và tình cảm chân thành của nhân dân cũng như du kích bốn thôn:
Nhĩ Hạ, Vĩnh Quang, Mai Xá, Lâm Xuân... Những chiếc thuyền đánh cá, đầu
máy xe tải nhỏ, máy bơm nước, máy xay xát thóc gạo, các thùng nhiên liệu
chạy máy... đều là tài sản lớn mà bà con chắt chiu, dành dụm trong
nhiều năm để làm ăn sinh sống. Nhưng khi bộ đội xin được trưng dụng thì
ai cũng sẵn sàng ủng hộ và nói: “Mấy chú từ miền Bắc vô đây chẳng tiếc
máu xương để giải phóng cho bà con, thì tụi tôi tiếc chi các thứ đó...”.
Thôn
Nhĩ Hạ có o Hồng, du kích, mới 17 tuổi, mặt tròn, da trắng, mắt bồ câu.
Hồng đang dẫn đường cho bộ đội thì bị pháo địch bắn dữ dội. Một số
chiến sĩ mới vào chiến trường, chưa quen trận mạc nên hốt hoảng, lúng
túng. Giữa lúc ấy, o bình tĩnh hướng dẫn anh em xuống trú ẩn vào các hố
bom vừa nổ, bảo toàn lực lượng.
Có
thuyền và nhiên liệu chạy máy, phân đội vận tải thủy của đơn vị được
thành lập, kèm theo một tổ bảo đảm kỹ thuật mà nòng cốt là mấy chiến sĩ
quê ở hai huyện Giao Thủy và Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngay trong 5
đêm đầu tiên, đơn vị đã vận chuyển được 8 tấn vũ khí vào thị xã Quảng
Trị và đưa gần 100 thương binh về tuyến sau an toàn. Nhưng rồi địch phát
hiện ra, nên cuộc chiến ác liệt trên sông Thạch Hãn bắt đầu...
Để
tìm diệt thuyền tiếp tế của ta, đêm đêm, chúng cho máy bay thả đèn dù
sáng rực và rải bom từ trường trên sông, nhiều nhất là đoạn từ cầu Quảng
Trị, thôn Nhan Biều đến căn cứ Ái Tử. Với ánh sáng đèn dù, các chiến sĩ
cứ nghe tiếng máy bay và tiếng nổ “bụp” trên trời, liền cho thuyền đã
ngụy trang, tắt máy, áp sát vào bờ; đợi đèn dù tắt, máy bay đi xa, lại
tiếp tục công việc. Nhưng đối phó với bom từ trường thì không dễ, bởi
bom chìm sâu dưới lòng sông, rất khó phát hiện. Nếu thuyền đi qua, tác
động của chân vịt, bom sẽ phát nổ, gây thương vong, nhấn chìm vũ khí,
đạn dược.
Thời
gian đầu, bom từ trường của địch đã phá hủy nhiều thuyền của ta và làm
hàng chục cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đồng chí Phạm Vụ, Chính trị viên đại
đội, dẫn một tổ đi tìm kiếm thi hài đồng đội để chôn cất, đã phải thu
nhặt từng mảnh thi thể liệt sĩ bị bom địch hất lên bờ sông. “Cái khó ló
cái khôn”, phải tìm cách chế ngự sự hiểm nguy này.
Đơn
vị cử một tổ được tăng cường ba chiến sĩ công binh của Sư đoàn 320B và
có du kích địa phương giúp đỡ, thực hiện rà phá bom từ trường bằng
phương pháp thủ công: Dùng dây ni-lông, buộc các thùng đạn đại liên của
địch (cách 5m một thùng), với độ sâu từ 1,5 đến 2m, có cây chuối làm
phao; rồi chăng ngang sông và kéo xuôi dòng chảy để kích cho bom nổ.
Trong quá trình rà phá bom, anh chị em phát hiện nhiều thi thể bộ đội ta
hy sinh trong lúc vượt sông sang Thành cổ Quảng Trị, trôi theo dòng
nước khiến anh chị em sục sôi căm thù giặc. Đêm đêm, khi đưa thuyền
ngang qua các đoạn sông có bom từ trường, để hạn chế thương vong, ta tắt
máy, chỉ để một người trên thuyền cầm sào giữ hướng, số còn lại, buộc
dây vào mũi thuyền, lội theo mép nước, kéo qua đoạn nguy hiểm.
Trong
81 ngày đêm diễn ra chiến dịch bảo vệ thị xã, Thành cổ Quảng Trị, thì
có đến gần 40 đêm, thuyền của Đại đội 1, vận chuyển vũ khí, đạn dược,
thương binh cho các đơn vị bộ đội. Thường thì, mỗi đêm từ một đến ba
chiếc qua sông và hầu như, đêm nào cũng có đồng đội hy sinh. Khó khăn,
gian khổ và hiểm nguy như vậy, nhưng với khẩu hiệu “Đoàn Quang Sơn còn
thì thị xã, Thành cổ Quảng Trị còn”, “Đại đội 1 còn thì Đoàn Quang Sơn
còn được cung cấp vũ khí, đạn dược”. Anh em trong đơn vị đã đoàn kết một
lòng, kiên quyết vượt qua mưa bom, bão đạn của quân thù để đưa những
chuyến hàng tới đích.
Trong
81 ngày đêm, ngược xuôi dòng Thạch Hãn làm nhiệm vụ, một phần ba số
quân của Đại đội 1 đã mãi mãi hóa thân vào dòng sông đầy máu lửa. Cùng
với những con thuyền, hài cốt liệt sĩ của đơn vị còn nằm dưới lòng sông
này. Linh hồn của các anh trở thành hồn thiêng sông nước.
... Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ
Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm
(Thơ Lê Bá Dương)
Cuộc
chiến đấu anh hùng trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, kết
thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông hơn 5 vạn tên, với
thừa thãi vũ khí, bom đạn hiện đại, một lần nữa làm sáng ngời chân lý:
Kẻ thù dù có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con
người có ý chí kiên cường, một lòng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ
quốc. Đúng như cố Tổng bí thư Lê Duẩn tôn vinh về cuộc chiến đấu trong
Thành cổ Quảng Trị: “Chúng ta đã chịu được không phải chúng ta là gang
thép; vì gang thép cũng chảy với bom đạn địch; mà chúng ta là những con
người thực sự, con người Việt Nam với truyền thống hàng nghìn năm, đã
giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”.
Theo QĐND.VN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét